Định mệnh của chúng ta là sống trong thời đại không thể xóa sạch dấu vết

7 4 / 2023
Đăng bởi: lovebird21c

Định mệnh của chúng ta là sống trong thời đại không thể xóa sạch dấu vết

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

‘It Is Our Fate to Live in the Age of the Indelible’

 

‘Định mệnh của chúng ta là sống trong thời đại không thể xóa sạch dấu vết’

 

 


 

In “Bottoms Up and the Devil Laughs,” Kerry Howley explores how the erosion of privacy has fueled conspiracy theories and the national security state.

 

Cuốn sách “Bottoms Up and the Devil Laughs” (“Hãy cạn ly  và quỷ dữ cất tiếng cười”) của Kerry Howley phân tích tình trạng quyền riêng tư bị hủy hoại đã khích động các thuyết âm mưu và tình trạng an ninh quốc gia như thế nào.

 

 

 

The cover of “Bottoms Up and the Devil Laughs,” is pink, with the title and author’s name appearing in slightly wobbly type, as if produced on a home printer.

 

Trang bìa cuốn “Bottoms Up and the Devil Laughs” màu hồng, với tựa đề sách và tên tác giả được in kiểu nghiêng ngả, cứ như được in bằng máy in gia đình.

 

 

 

Standing with one foot on a letter in the title is a small white figure of the devil holding a drink can in its right hand.

 

Đứng một chân trên một chữ cái của tựa đề là hình một con quỷ nhỏ màu trắng tay phải đang giơ lon đồ uống.

 

 

 

The people in Kerry Howley’s new book include fabulists, truth tellers, combatants, whistle-blowers.

 

Những nhân vật trong cuốn sách mới của Kerry Howley gồm những người kể chuyện hoang đường, những người kể câu chuyện thật, những chiến binh, những kẻ tố giác.

 

 

 

Like many of us, they have left traces of themselves in the digital ether by making a phone call, texting a friend, looking up something online.

 

Chẳng khác gì nhiều người trong số chúng ta, họ đã để lại những dấu vết của mình trong không gian kỹ thuật số  khi gọi điện thoại, nhắn tin cho bạn bè, tìm kiếm thứ gì đó trên mạng.

 

 

 

Certain conveniences have become so frictionless that we reflexively entrust devices with mundane yet intimate secrets: group-chat gossip, numbers of steps taken, dumb selfies.

 

Một số tiện ích nhất định trở nên sẵn có  đến mức chúng ta vô tình  trao gửi cho các thiết bị những bí mật trần tục mà hơn nữa lại còn riêng tư: chuyện ngồi lê đôi mách trong cuộc trò chuyện nhóm, số bước đã đi , những bức ảnh selfie  ngớ ngẩn.

 

 

 

“It is our fate to live in the age of the indelible,” Howley writes in “Bottoms Up and the Devil Laughs,” her account of the national security state and the people entangled in it.

 

“Định mệnh của chúng ta là sống trong thời đại không thể xóa sạch dấu vết này,” Howley viết trong “Bottoms Up and the Devil Laughs,” câu chuyện chị kể về tình trạng an ninh quốc gia và những con người vướng mắc vào đó.

 

 

 

“It’s best to just take another photograph. Keep building up the database. Throw it into the cloud, whatever that is.”

 

“Tốt nhất là cứ chụp một bức ảnh khác. Tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu. Ném nó vào đám mây [lưu trữ], bất kể đó là gì.”

 

 

 

Howley is a writer for New York magazine and the author of “Thrown” (2014), a book about mixed martial arts fighters (real) that was narrated by a philosophy student named Kit (not real).

 

Howley là nhà văn của tạp chí New York và là tác giả của “Thrown” (“Bị quật ngã”) xuất bản năm 2014, cuốn sách về các võ sĩ võ thuật tổng hợp (có thật) được thuật lại bởi một sinh viên triết học tên Kit (hư cấu).

 

 

 

As far as I can tell, “Bottoms Up” seems to be narrated by Howley — though who she “really is” and, by extension, who any of us “really are” is something that this book encourages us not to take for granted.

 

Theo tôi biết “Bottoms Up” có vẻ được thuật lại bởi Howley – dù chị “thực sự là ai”, và nói rộng ra là bất kỳ ai trong chúng ta “thực sự là ai”, là điều mà cuốn sách này không khuyến khích chúng ta coi nhẹ .

 

 

 

The book is riveting and darkly funny and, in all senses of the word, unclassifiable.

 

Cuốn sách thu hút và hài hước theo kiểu đen tối,  và là cuốn sách “không thể phân loại được” theo đúng nghĩa .

 

 

 

Howley writes about privacy and its absence; about hiding and leaking and secrets and betrayal.

 

Howley viết về quyền riêng tư và sự thiếu vắng quyền này; về che đậy và rò rỉ, về bí mật và sự phản bội.

 

 

 

But she also writes about the strange experience of living, and how it gets flattened and codified into data that can be turned into portraits of static, permanent beings — creatures who would be unrecognizable to ourselves.

 

Nhưng chị cũng viết về trải nghiệm kỳ lạ về cuộc sống, và cách mà trải nghiệm đó được “làm phẳng ” và mã hóa thành những dữ liệu có thể biến thành chân dung của những bản thể tĩnh tại, vĩnh hằng – những tạo vật mà chính chúng ta cũng không thể nhận ra.

 

 

 

“With endless information comes the ability to take information from its context, to tell stories perfectly matched to the intentions of the teller, freed from the complex texture of reality,” Howley writes.

 

“Đi kèm nguồn thông tin vô tận là khả năng chọn  thông tin từ bối cảnh của nó, để kể những câu chuyện phù hợp tuyệt đối với ý định của người kể, được giải phóng khỏi cấu trúc phức tạp của thực tế,” Howley viết.

 

 

 

Countering that slide toward bland propaganda, “Bottoms Up” returns information to its context, capturing as much as possible the texture of reality, showing us how bewildering it often is.

 

Đối kháng với xu hướng tuyên truyền nhạt nhẽo đó, “Bottoms Up” đưa thông tin trở lại ngữ cảnh của nó, nắm bắt nhiều hết mức có thể cấu trúc của thực tế, cho chúng ta thấy nó thường phức rối đến mức nào.

 

 

 

She reintroduces us to figures like Edward Snowden, Julian Assange, Chelsea Manning and John Walker Lindh.

 

Một lần nữa chị giới thiệu cho chúng ta những nhân vật như Edward Snowden, Julian Assange, Chelsea Manning và John Walker Lindh.

 

 

 

We revisit the case of John Kiriakou, the ex-C.I.A. officer who disclosed on television that the American government had waterboarded (that is, tortured) a detainee.

 

Chúng ta được xem lại trường hợp của John Kiriakou, cựu sĩ quan CIA người tiết lộ trên truyền hình rằng chính phủ Mỹ đã trấn nước (tra tấn) người bị tạm giữ vì tình nghi.

 

 

 

Kiriakou would become the first C.I.A. officer convicted of a leak.

 

Kiriakou trở thành sĩ quan CIA đầu tiên bị kết án về một vụ rò rỉ thông tin.

 

 

 

He later took a job at the Russian propaganda outfit Sputnik Radio.

 

Sau này ông nhận công việc tại cơ quan tuyên truyền Sputnik Radio của Nga.

 

 

 

But at the center of this book is Reality Winner (“her real name, let’s move past it now”), who was 9 years old on 9/11.

 

Song trọng tâm của cuốn sách là Reality Winner  (“là tên thật của cô ấy, chúng ta hãy bàn luận cái tên này vào lúc khác ”), cô bé lên chín tuổi vào ngày 11/9 .

 

 

 

What happened to Winner is the point on which a number of the book’s themes converge.

 

Những gì xảy ra với Winner là điểm mà một số chủ đề của cuốn sách này quy tụ.

 

 

 

She joined the Air Force at 18, becoming a linguist who spoke Dari and Pashto.

 

Cô gia nhập Lực lượng Không quân ở tuổi 18, trở thành nhà ngôn ngữ học nói tiếng Dari và tiếng Pashto.

 

 

 

She later worked as a contractor for the National Security Agency.

 

Sau đó, cô làm việc ở cương vị một nhà thầu  cho Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA).

 

 

 

In 2017 she was arrested for mailing five printed pages of classified information to The Intercept that detailed Russian efforts to interfere in the 2016 elections.

 

Năm 2017 cô bị bắt vì gửi năm trang in thông tin mật cho tổ chức tin tức phi lợi nhuận The Intercept, những trang thông tin này trình bày chi tiết nỗ lực của Nga nhằm can thiệp vào cuộc bầu cử năm 2016.

 

 

 

Howley got to know Winner and her family, depicting a young woman who “took ideas in their fullness, ignorant of their social context, and therefore radically open to argument.”

 

Howley làm quen từng bước  với Winner và gia đình cô, chị miêu tả một phụ nữ trẻ “tiếp thu những ý tưởng một cách trọn vẹn mà không hay biết về bối cảnh xã hội của chúng, và vì thế sẵn sàng tranh luận quyết liệt”.

 

 

 

Winner worked as a translator for the drone program while teaching yoga and worrying about global warming.

 

Winner làm phiên dịch cho chương trình máy bay không người lái, đồng thời dạy yoga và lo lắng về sự nóng lên toàn cầu.

 

 

 

“She was not on a team,” Howley writes.

 

Howley viết: “Cô ấy không thuộc về một nhóm nào .”

 

 

 

The book suggests it was this — the fact that nothing Winner did was easily amenable to the narrative of a particular side — that eventually did her in.

 

Cuốn sách ngụ ý rằng chính điều này – thực tế chẳng có việc nào Winner làm lại dễ dàng  tuân theo quan điểm  của một bên cụ thể – rốt cuộc  đã làm hại cô .

 

 

 

Winner sent the classified information to The Intercept because she visited the site for news; she knew that some of its journalists were skeptical about the allegation of Russian meddling, and she wanted to show them evidence of the meddling.

 

Winner gửi thông tin mật cho The Intercept vì cô truy cập website này để đọc tin tức; cô biết rằng một số nhà báo của The Intercept tỏ ý nghi ngờ cáo buộc về sự can thiệp của Nga và cô muốn cho họ xem bằng chứng về sự can thiệp đó.

 

 

 

Howley explains, step-by-step, how The Intercept bungled the handling of those five pages, neglecting to consult its own first-rate digital security experts, eventually showing the document — creases and watermarks intact, betraying the source — to the N.S.A. for verification.

 

Từng bước một, Howley giải thích cách The Intercept xử lý năm trang thông tin đó lộn xộn đến thế nào khi họ phớt lờ việc tham khảo ý kiến các chuyên gia bảo mật kỹ thuật số hạng nhất trong nội bộ của họ và cuối cùng đưa tài liệu đó – còn nguyên các nếp gấp và dấu đóng mờ khiến nguồn tin bị lộ – cho NSA để xác minh.

 

 

 

“It would prove extremely unfortunate for Reality that the audience who might be most interested in and moved by her case was largely captured by a publication embarrassed by it,” Howley notes.

 

Howley lưu ý: “Điều đó chứng tỏ cực kỳ không may cho Reality khi khán thính giả, những người có thể quan tâm nhất và xúc động nhất vì vụ án của cô, đa phần bị thu hút bởi sự công bố rất cẩu thả của The Intercept.”

 

 

 

It would also prove extremely unfortunate for Reality that the American government used her work for the American government against her.

 

Điều đó còn chứng tỏ cực kỳ không may cho Reality khi chính phủ Mỹ sử dụng công việc cô làm cho chính phủ Mỹ để chống lại chính cô.

 

 

 

“It had taught her obscure languages,” Howley writes, “knowledge of which it now implied was dangerous.”

 

“Chính phủ đã dạy cho cô những ngôn ngữ ít người biết đến,” Howley viết, “kiến thức mà giờ đây nó [chính phủ] ám chỉ là nguy hiểm.”

 

 

 

A note Winner had made about wanting to “burn the White House down” was taken as proof of malevolent intent, omitting the “ha, ha” that followed it.

 

Ghi chú Winner viết về việc muốn "thiêu rụi Nhà Trắng" được đưa ra như bằng chứng về dã tâm, phớt lờ những chữ "ha, ha" ngay sau nó.

 

 

 

(Winner later wondered if she would have fared better with an “lol jk.”)

 

(Winner sau đó băn khoăn liệu cô có may mắn hơn nếu đó là những chữ “lol jk” [cười vãi, đùa thôi].)

 

 

 

She was sentenced to 63 months — “the longest sentence ever handed down for an Espionage Act conviction.”

 

Cô bị kết án 63 tháng tù – “bản án dài nhất từng được tuyên cho tội danh vi phạm Đạo luật Gián điệp.”

 

 

 

The government assembled the fragments from Winner’s life and projected a story into the absences, essentially creating what Howley elsewhere calls a “fantasy built on solid ground.”

 

Chính phủ đã chắp nhặt những mẩu tình tiết từ cuộc đời của Winner và phóng chiếu một câu chuyện vào những chỗ thiếu khuyết, về căn bản là tạo ra thứ mà Howley ở đâu đó gọi là “sự tưởng tượng được xây dựng trên nền tảng vững chắc.”

 

 

 

This warped kind of world-building bears more than a passing resemblance to what conspiracy theorists do. So it’s fitting that the title “Bottoms Up and the Devil Laughs” comes from a 2014 viral video of a Christian woman at a conference who presents a (remarkably polished and assured) case that Monster Energy drinks are a vehicle for Satan.

 

Hư cấu ra một thế giới mới  theo kiểu xuyên tạc này có nhiều điểm tương đồng với những gì những nhà thuyết âm mưu vẫn làm. Vì vậy, thật vừa khéo khi tựa đề “Bottoms Up and the Devil Laughs” khởi nguồn từ video được lan truyền năm 2014 về một phụ nữ Cơ đốc giáo tại một hội nghị đã trình bày một trường hợp (rất hoàn hảo và chắc chắn) rằng các loại đồ uống Monster Energy (Nước tăng lực Quái vật) là phương tiện của quỷ Satan.

 

 

 

From there it’s just a short crawl to QAnon’s elaborate nightmares about Satan-worshiping pedophiles.

 

Từ điểm đó chỉ cần bước ngắn là đến những cơn ác mộng phức rối của QAnon [thuyết âm mưu chính trị của Mỹ] về những kẻ ấu dâm tôn thờ Satan.

 

 

 

The arc of Howley’s extraordinary book feels both startling and inevitable; of course a journey through the deep state would send her down the rabbit hole.

 

Diễn tiến câu chuyện trong cuốn sách phi thường của Howley cho ta cảm giác vừa sửng sốt lại vừa chẳng lấy gì làm lạ; tất nhiên cuộc hành trình xuyên qua mạng lưới quyền lực ngầm đó  sẽ đẩy cô gái này  vào rắc rối .

 

 

 

“There’s a once-in-a-lifetime opportunity to take this global cabal of Satan-worshiping pedophiles out, and I think we have the president to do it,” Marjorie Taylor Greene, now a congresswoman from Georgia, said in 2017.

 

Marjorie Taylor Greene, hiện là nữ nghị sĩ đại diện cho bang Georgia, phát biểu hồi năm 2017: “Có một cơ hội ngàn-năm-có-một để xóa sạch bè đảng ấu dâm tôn thờ Satan trên toàn cầu, và tôi thiết nghĩ chúng ta có vị tổng thống để làm điều đó.”

 

 

 

How’s that for the banality of evil?

 

 Về phần tính tầm thường của cái ác thì sao đây?

 

 

 

As Howley puts it, “True believers speak of Satanism with the bored fluency of someone selling condos.”

 

Như Howley viết: “Những tín đồ chân chính nói về Đạo Satan với sự trôi chảy nhàm chán của một người bán căn hộ.”

 

 

 

But it’s not as if QAnon has had to make up its nonsense out of whole cloth.

 

Song chẳng phải  QAnon phải bịa đặt câu chuyện vô nghĩa lý của mình từ sự hư cấu thuần túy .

 

 

 

Its propagation also relies on the not uncommon impulse to worry for one’s children.

 

Sự truyền bá của nó cũng dựa trên sự thôi thúc phải lo lắng cho con cái rất thường tình của con người.

 

 

 

It was only toward the end of the book that I noticed how children were a recurrent presence — Howley’s, her friend’s, those of a camera assistant in Baghdad killed by an American strike.

 

Chỉ khi đọc đến cuối cuốn sách, tôi mới nhận ra trẻ em hiện diện thường xuyên đến thế nào – con cái của Howley, của bạn của chị, của một trợ lý quay phim ở Baghdad bị giết bởi cuộc tấn công của Mỹ.

 

 

 

Howley learned she was pregnant while reporting the book.

 

Howley biết mình có thai khi đang viết cuốn sách.

 

 

 

“I despaired many times, in the writing, about my ability to protect the thing I was growing,” she says.

 

Chị cho biết: “Trong lúc viết, tôi nhiều lần tuyệt vọng về khả năng bảo vệ tạo vật mà tôi đang  nuôi dưỡng.”

 

 

 

She was immersed in a world “that had forgotten what it was like to construct a self in the dark.”

 

Chị đắm mình vào thế giới “đã quên mất việc xây dựng một bản thể trong bóng tối là như thế nào.”

 

 

 

We become ourselves by shedding our past selves — but now those discarded selves are recorded somewhere, potentially living longer than we do. In her acknowledgments, Howley ends with a note to her children that could serve as a blessing for us all:

 

Chúng ta trở thành chính mình bằng cách rũ bỏ con người quá khứ của mình – nhưng giờ đây những con người bị rũ bỏ đó được ghi lại ở đâu đó, có khả năng sống lâu hơn chúng ta. Trong lời cảm ơn của mình, Howley kết thúc bằng lời nhắn nhủ tới các con, mà có thể coi như lời chúc phúc cho tất cả chúng ta:

 

 

 

“May you be only as remembered as you wish.”

 

“Mong các con chỉ được nhớ đến như những gì các con muốn.”


BOTTOMS UP AND THE DEVIL LAUGHS: A Journey Through the Deep State | By Kerry Howley | 233 pp. | Alfred A. Knopf | $28

Chia sẻ: