Quyền lực của Báo chí

20 8 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Quyền lực của Báo chí

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

The Power of the Press

 

Quyền lực của Báo chí

 

 


 

A Los Angeles Times reporter takes on a powerful university — and his own paper.

 

Một phóng viên của tờ Los Angeles Times chống lại một trường đại học quyền lực – và cả tờ báo mà chính ông đang làm việc tại đó.

 

 

 

“Bad City,” by Paul Pringle, begins in Pasadena, Calif., in March 2016, with the kind of tip that reporters prize:

 

“Bad City” (tạm dịch: “Thành phố sa ngã”), là tác phẩm của Paul Pringle, mở đầu vào một ngày tháng 3/2016 ở Pasadena, California, bằng loại mô-típ mà giới phóng viên thường đề cao:

 

 

 

An unconscious young woman.

 

Một phụ nữ trẻ bất tỉnh.

 

 

 

A drug-paraphernalia-strewn hotel room.

 

Một căn phòng khách sạn vung vãi đồ dùng cá nhân và ma túy.

 

 

 

An older male companion, reluctant to call for help, who turns out to be the dean of the University of Southern California’s prestigious Keck School of Medicine.

 

Một người bạn trai lớn tuổi, hóa ra lại là trưởng khoa của Trường Y khoa Keck danh tiếng thuộc Đại học Nam California (“USC”), đã bất đắc dĩ kêu cứu.

 

 

 

Pringle, an investigative reporter at The Los Angeles Times, believed that he could quickly push out a story about one more powerful man behaving badly, the bread-and-butter work of someone who keeps tabs on the city’s most influential people for a living.

 

Là phóng viên điều tra của tờ The Los Angeles Times, Pringle tin rằng ông có thể nhanh chóng đưa lên báo thêm một câu chuyện nữa về một người đàn ông quyền lực có hành vi tồi tệ – đây là công việc miếng cơm manh áo của một người luôn dõi theo những người có ảnh hưởng nhất của thành phố này để kiếm sống.

 

 

 

In fact, the hotel episode led to a series of facts that were much darker than Pringle could have imagined.

 

Trên thực tế, tình tiết ở cái khách sạn đó đã dẫn đến một loạt sự thật đen tối hơn nhiều so với những gì Pringle có thể tưởng tượng ra.

 

 

 

It sucked him into a 16-month-long reporting saga that eventually produced an L.A. noir-style story of exploitation, depravity and greed.

 

Nó hút ông vào kiểu phóng sự trường thiên mà ông mất 16 tháng để viết, cuối cùng đã tạo ra một câu chuyện theo phong cách noir  ở Los Angeles về sự bóc lột, đồi bại và tham lam.

 

 

 

It also resulted in the ouster of the newspaper’s editor and publisher, with whom Pringle went to war over the boss’s coziness with U.S.C. and its top officials.

 

Nó cũng dẫn đến việc trục thải hồi tổng biên tập kiêm chủ báo của tờ báo, ông sếp mà Pringle đã tranh đấu vì sự bao che của ông ta đối với USC và các lãnh đạo của trường này.

 

 

 

Pringle’s fast-paced book is a master class in investigative journalism, explaining how a reporter wrestles information and documents from reluctant sources and government officials.

 

Cuốn sách có tiết tấu dồn dập của Pringle là một kiệt tác bậc thầy về phóng sự điều tra, nó giải thích cái cách một phóng viên đánh vật với thông tin và tài liệu từ những nguồn không tự nguyện và các quan chức chính phủ.

 

 

 

It is a stark look at the weakening of local news, especially at The Los Angeles Times.

 

Đó là góc nhìn thẳng thắn vào sự cùn nhụt của báo chí địa phương, đặc biệt là tại tờ The Los Angeles Times.

 

 

 

Sam Zell, a notorious vulture investor, had acquired the newspaper’s parent company in 2007, and mortgaged away its own employees’ pensions, leaving the company in financial ruin in 2008, before the biotech billionaire Patrick Soon-Shiong purchased the flailing paper in 2018.

 

Sam Zell, nhà đầu tư trục lợi khét tiếng, năm 2007 đã mua lại công ty mẹ của tờ báo và đã đem lương hưu dành cho nhân viên của nó đi thế chấp, bỏ mặc công ty trên bờ vực phá sản năm 2008, trước khi nhà tỷ phú công nghệ sinh học Patrick Soon-Shiong mua tờ báo đang chao đảo này hồi năm 2018.

 

 

 

“Bad City” is a compelling version of this narrative that one can rip through in a few long afternoons at the beach.

 

“Bad City” là phiên bản rất lôi cuốn của câu chuyện đó mà ta có thể đọc ngấu nghiến trong vài buổi chiều thảnh thơi trên bãi biển.

 

 

 

But Pringle doesn’t let the reader linger on the salacious details without considering the many ways that unchecked power fosters depravity and corruption, a shopworn idea that seems to have fresh relevance in 2022, when abuse of authority is on the rise and checks on that abuse seem ever less likely to win out.

 

Song Pringle chẳng để cho người đọc nấn ná ở những chi tiết gợi tình mà lại không ngẫm nghĩ gì đến cái quyền lực không gì ngăn cản được đã dùng vô vàn phương cách để khuyến khích sự đồi bại và tham nhũng ra sao, một ý tưởng đã cũ mòn mà dường như lại có mối liên quan mới vào năm 2022, khi sự lạm dụng quyền lực đang gia tăng và việc kiểm soát sự lạm dụng đó dường như ít có khả năng thắng thế hơn bao giờ hết.

 

 

 

Many of the events that Pringle chronicles are already known to readers who follow his work.

 

Độc giả theo dõi tác phẩm của Pringle đã biết đến rất nhiều trong số những sự kiện mà ông ghi chép lại.

 

 

 

His articles became national news that deeply impacted U.S.C. They remain enraging five years on.

 

Những bài báo của ông đã trở thành tin tức quốc gia có ảnh hưởng sâu sắc đến USC. Đã năm năm trôi qua mà chúng vẫn khiến người đọc phẫn nộ.

 

 

 

After being stonewalled by law enforcement and U.S.C.’s top officials, Pringle and his colleagues managed to gather on-the-record interviews, police records and video evidence that told the abhorrent story of Carmen A. Puliafito, the dean of the Keck School of Medicine, who was seen on videos using crystal methamphetamine, heroin and Ecstasy with a group of young companions unaffiliated with the university.

 

Sau khi bị cơ quan thực thi pháp luật và các lãnh đạo của trường USC ngăn chặn, Pringle và các đồng nghiệp của ông đã xoay xở để thu thập được tài liệu về những cuộc phỏng vấn chính thức, hồ sơ cảnh sát và bằng chứng video thuật lại câu chuyện ghê tởm về Carmen A. Puliafito, trưởng khoa Trường Y khoa Keck, người được thấy đang sử dụng ma túy đá, heroin và thuốc lắc trên những video đó với một nhóm bạn bè trẻ tuổi không liên quan đến trường đại học này.

 

 

 

Additional detail in the book makes clear that Puliafito used drugs and money to control them, and to keep a young woman named Sarah Warren enslaved to his sexual needs.

 

Chi tiết bổ sung trong cuốn sách cho thấy rõ rằng Puliafito đã dùng ma túy và tiền để kiểm soát họ, và để giữ một phụ nữ trẻ tên là Sarah Warren làm nô lệ cho nhu cầu tình dục của hắn.

 

 

 

The Puliafito story, which The Los Angeles Times published in July 2017, eventually led the reporters to discover more male employees who either crossed ethical lines or committed crimes that the university then covered up.

 

Câu chuyện về Puliafito, được tờ The Los Angeles Times đăng hồi tháng 7/2017, cuối cùng đã mở đường cho các phóng viên đó phát hiện thêm nhiều nam nhân viên đã vượt qua ranh giới đạo đức hoặc đã phạm những tội ác mà sau đó đã được trường đại học này che đậy.

 

 

 

This included a gynecologist in the student health center who preyed upon young women, and disproportionately Asian women, for decades, photographing their genitals and sexually assaulting them, sometimes in a filthy exam room that reeked of his body odor.

 

Phát hiện này bao gồm một bác sĩ phụ khoa ở trung tâm y tế sinh viên, kẻ đã hàng thập kỷ làm hại những phụ nữ trẻ và đặc biệt là phụ nữ châu Á, chụp ảnh các bộ phận sinh dục của họ và tấn công họ để thỏa mãn dục tính, đôi khi trong một phòng khám bẩn thỉu nồng nặc mùi cơ thể hắn.

 

 

 

Uncovering wrongdoing and forcing corrupt systems to change is the kind of impact that makes journalism essential to a working democracy.

 

Việc vạch trần những hành vi sai trái và buộc các hệ thống tham nhũng phải thay đổi chính là lực tác động để biến báo chí thành thứ thiết yếu đối với một nền dân chủ đúng nghĩa.

 

 

 

It is how the fourth estate maintains its clout over the venerable, better-funded institutions that it covers.

 

Đó là cái cách để đệ tứ quyền [báo giới] duy trì quyền lực của mình đối với các tổ chức đáng kính và được tài trợ nhiều hơn mà nó thường đưa tin.

 

 

 

And it is what editors typically want their reporters to do, particularly if they are covering people in power.

 

Và đó là điều mà nhà biên tập đặc biệt mong muốn phóng viên của họ thực hiện, đặc biệt nếu họ đang đưa tin về giới quyền lực.

 

 

 

But behind the scenes, Pringle claims, he and his colleagues reported and wrote the Puliafito story in defiance of Davan Maharaj, the newspaper’s publisher and editor, and Marc Duvoisin, its managing editor.

 

Nhưng Pringle khẳng định rằng ở hậu trường ông và các đồng nghiệp của mình đã tường thuật và viết câu chuyện về Puliafito mà không tuân theo lệnh của chủ báo kiêm tổng biên tập Davan Maharaj và biên tập viên chính Marc Duvoisin của tờ báo này.

 

 

 

U.S.C. is one of the newspaper’s top business partners, the kind of moneyed advertiser that publishers typically court.

 

Trường USC là một trong những đối tác làm ăn hàng đầu của tờ báo, thuộc loại nhà quảng cáo lắm tiền mà các chủ báo thường ve vãn.

 

 

 

Pringle believes that it was inappropriate for Maharaj, “the ultimate point person for the paper’s business dealings with U.S.C.,” to have a hand in the Puliafito story, given the conflict of interest.

 

Pringle cho rằng việc Maharaj, “người ở vị trí lãnh đạo cao nhất đại diện trong những thỏa thuận kinh doanh của tờ báo với USC”, nhúng tay vào câu chuyện Puliafito là không thích hợp vì xung đột lợi ích.

 

 

 

And he accused the top two editors of back-channeling with U.S.C. officials, taking reporters off the story and using draconian edits to delay publication of the piece for several months.

 

Và ông cáo buộc hai nhà biên tập hàng đầu đó đã ngầm giao tiếp với các lãnh đạo của USC, loại các phóng viên ra khỏi câu chuyện này và dùng tiểu xảo biên tập thật hà khắc để trì hoãn việc xuất bản câu chuyện đó thêm dăm ba tháng.

 

 

 

Some of these moves have effectively shielded the school from criticism.

 

Một số trong số những động thái này đã che chắn hữu hiệu cho nhà trường khỏi bị chỉ trích.

 

 

 

Maharaj and Duvoisin denied those accusations after the initial Puliafito story ran, and in the book they dispute some of them again.

 

Maharaj và Duvoisin đã phủ nhận những cáo buộc đó sau khi câu chuyện ban đầu về Puliafito được đăng báo, và họ một lần nữa tranh cãi về một số trong số những câu chuyện đó ở cuốn sách này.

 

 

 

Pringle and his fellow reporters — Harriet Ryan, Adam Elmahrek, Matt Hamilton and Sarah Parvini — were left to secretly hunt down the facts that would become one of the largest university scandals of this century, careful not to be seen together in the office or to tell their bosses what they were doing.

 

Pringle và các phóng viên đồng nghiệp của ông – Harriet Ryan, Adam Elmahrek, Matt Hamilton và Sarah Parvini – đã phải bí mật săn lùng những sự thật sẽ trở thành một trong những vụ bê bối đại học lớn nhất thế kỷ này, họ đã phải cẩn trọng để không bị nhìn thấy tụ tập cùng nhau trong văn phòng hoặc nói với sếp của họ về việc họ đang làm.

 

 

 

They got more help from Puliafito’s drug-addicted victims and their family members than from the police officers, school officials and editors whose job it was to stop him.

 

Họ nhận được sự giúp đỡ từ các nạn nhân nghiện ma túy của Puliafito và thành viên trong gia đình họ nhiều hơn là từ các sĩ quan cảnh sát, lãnh đạo nhà trường và các nhà biên tập, mà nhiệm vụ của những người này là ngăn chặn hắn.

 

 

 

An irate Pringle recounts his fears about Maharaj’s admiration for Max Nikias, the long-rubber-stamped U.S.C. president whose own misconduct would lead to his departure in 2018, and the audacious edits the paper made to water down the story.

 

Pringle giận dữ khi kể lại nỗi lo sợ của mình về sự ngưỡng mộ của Maharaj đối với Max Nikias, vị giám đốc làm-vì bấy lâu của trường USC mà hành vi sai trái của chính ông ta sẽ dẫn đến việc ông ta phải rời nhiệm sở năm 2018, và những tiểu xảo biên tập trơ tráo mà tờ báo này đã làm để dìm câu chuyện xuống.

 

 

 

Early on in the process, Duvoisin would not let Pringle call the article a “Times investigation,” because, Duvoisin said, “it implies wrongdoing.”

 

Ngay từ đầu quá trình làm phóng sự này, Duvoisin đã không cho Pringle gọi bài báo là một "cuộc điều tra của tờ Times", bởi vì, như Duvoisin nói, "nó ngụ ý hành vi sai trái."

 

 

 

When Pringle shared his concerns with colleagues, Times-affiliated lawyers and eventually the head of human resources, he helped spark an internal investigation into Maharaj and Duvoisin’s handling of the Puliafito story.

 

Khi Pringle chia sẻ mối lo của mình với các đồng nghiệp, với những luật sư của tờ Times và cuối cùng là người đứng đầu bộ phận nhân sự, ông đã giúp khơi ra một cuộc điều tra nội bộ về việc Maharaj và Duvoisin xử lý câu chuyện Puliafito.

 

 

 

Though the official findings determined neither editor commited wrongdoing, a month after the story ran, both were pushed out.

 

Mặc dù các kết luận điều tra chính thức xác định cả hai nhà biên tập đó đều không phạm sai lầm, nhưng sau khi câu chuyện lên báo được một tháng thì cả hai người này đều bị sa thải.

 

 

 

Despite his fight with Maharaj and Duvoisin, despite the still tenuous financial position of the newspaper and the might of U.S.C. — thanks to the fund-raising prowess of men like Puliafito — Pringle believes that reporters and their sources, lowly as they are, can outmaneuver even the most powerful people and institutions and bring them to heel.

 

Bất chấp cuộc chiến của ông với Maharaj và Duvoisin, bất chấp tình hình tài chính của tờ báo vẫn còn yếu kém và sức mạnh của trường USC – nhờ vào năng lực gây quỹ của những người như Puliafito – Pringle tin rằng các phóng viên và nguồn tin của họ, dù chỉ khiêm tốn như hiện có, có thể khéo léo đánh bại thậm chí là cả những con người và tổ chức quyền lực nhất và khiến họ phải khuất phục.

 

 

 

And when those institutions collude to protect one another, reporting may be our last best hope for accountability.

 

Và khi những tổ chức kiểu đó thông đồng để bảo vệ lẫn nhau, phóng sự điều tra có thể là hy vọng cao nhất và cuối cùng của chúng ta để buộc chúng phải có trách nhiệm giải trình.

 

 

 

Pringle delivers his account in a torrent of sharp storytelling and righteous score-settling that might seem petty if the stakes were not so grave.

 

Pringle thể hiện câu chuyện của ông bằng lối kể chuyện sắc sảo thao thao bất tuyệt và sự trả đũa ngay thẳng, có lẽ những điều đó có vẻ tầm thường nếu mối nguy hại không nghiêm trọng đến thế.

 

 

 

By 2016, The Los Angeles Times was a husk of its former self, thanks to Zell.

 

Đến năm 2016, tờ The Los Angeles Times chỉ còn là cái vỏ ngoài vô giá trị của chính nó trước đây, chỉ vì Zell.

 

 

 

As the newspaper cut staff through buyouts and layoffs, the university offered financial support to the publisher’s office in the form of advertising, and to the newsroom in the form of jobs.

 

Khi tờ báo cắt giảm nhân viên thông qua việc mua lại và cho nghỉ việc tạm thời, thì trường đại học đó đã cung cấp hỗ trợ tài chính cho văn phòng của chủ báo dưới hình thức quảng cáo, và cho phòng tin tức dưới hình thức tài trợ việc làm.

 

 

 

“The Times’s power had always flowed principally from the robustness and incorruptibility of its journalism.

 

“Quyền lực của tờ Times luôn bắt nguồn trên hết là từ tính ngay thẳng và liêm khiết trong việc hành nghề báo chí của nó.

 

 

 

Its power came from being a check on power,” Pringle writes.

 

Quyền lực của nó đến từ việc điều tra giới quyền lực,” Pringle viết.

 

 

 

“It was that power that I was convinced Maharaj and his enablers had surrendered to a rising and emboldened U.S.C.”

 

“Chính vì quyền lực đó mà tôi tin chắc rằng Maharaj và những người hỗ trợ ông ta đã đầu hàng trước một USC đang lên và ngày càng táo tợn.”

 

 

 

There were terrible consequences when U.S.C. had the upper hand.

 

Đã xảy ra những hậu quả kinh hoàng khi USC chiếm thế thượng phong.

 

 

 

During the months that Pringle and his colleagues fought for permission to publish the Puliafito story, the doctor continued to supply drugs to Warren and others.

 

Trong những tháng mà Pringle và các đồng nghiệp của ông đang đấu tranh để được phép xuất bản câu chuyện về Puliafito, tên bác sĩ đó vẫn tiếp tục cung cấp ma túy cho Warren và những người khác.

 

 

 

He introduced Warren’s teenage brother to meth, and fostered an addiction that made school and work impossible.

 

Hắn đã đưa cậu em trai còn niên thiếu của Warren đến với ma túy đá, và khuyến khích sự nghiện ngập khiến việc đi học và đi làm thành bất khả thi.

 

 

 

And Puliafito’s “No. 2 girl,” a nude model named Dora Yoder who also provided him with sex in order to feed her drug addiction, had a baby who died in October 2017, just 25 days old, with meth in his body.

 

Và “cô gái Số 2 của Puliafito”, một người mẫu khỏa thân tên là Dora Yoder cũng cho hắn quan hệ tình dục để nuôi cơn nghiện ma túy của mình, đã sinh một đứa con và đứa bé đã chết hồi tháng 10/2017 khi mới được 25 ngày tuổi, với ma túy trong cơ thể bé.

 

 

 

When the institutions that are supposed to protect people — like Warren, her family and her peers, like university students and health care patients and the people of Los Angeles — abdicate their responsibilities to the public trust, it’s too often the public who has to pay.

 

Khi các tổ chức mà ta tưởng là phải bảo vệ mọi người – những người như Warren, gia đình cô và những người đồng trang lứa với cô, cũng như các sinh viên đại học, bệnh nhân ở các cơ sở y tế và người dân Los Angeles – lại buông bỏ trách nhiệm của mình trước sự tin tưởng của công chúng, thì công chúng sẽ luôn là người phải trả giá.


BAD CITY: Peril and Power in the City of Angels, by Paul Pringle | 289 pp. | Celadon | $29.99.

Chia sẻ: