Oxford Quartet: The Women Who Took On the Philosophical Establishment
|
|
Bộ tứ Oxford: Những người phụ nữ
đảm đương sứ mệnh đặt nền móng triết học
|
|
|
|
In 1948, four young women, all close friends, met in the Lyons’
tearoom in Oxford to discuss philosophy.
|
|
Năm 1948, bốn người phụ nữ
trẻ đều là bạn thân đã gặp nhau trong phòng trà Lyons ở Oxford để luận đàm về
triết học.
|
|
|
|
In a talk that grew out of that conversation with Iris Murdoch,
Elizabeth Anscombe and Mary Scrutton (who in two years would become Mary
Midgley), Philippa Foot would explain that “the whole of moral philosophy, as
it is now widely taught, rests on a contrast between statements of fact and
evaluations.”
|
|
Trong một cuộc nói chuyện
nảy ra từ cuộc đàm luận đó với Iris Murdoch, Elizabeth Anscombe và Mary
Scrutton (người mà hai năm sau sẽ thành Mary Midgley), Philippa Foot đã giải
thích rằng “toàn bộ đạo đức học, như hiện nay đang được giảng dạy rộng rãi, dựa
trên sự tương phản giữa những tuyên bố về sự kiện thực tế và những đánh giá.”
|
|
|
|
Very simply put, all four women believed that morality had some kind
of reality outside of individual feelings and choices and that this reality
existed somewhere beyond, behind or beneath the observable facts of the
physical universe.
|
|
Nói một cách thật đơn giản
là, cả bốn người phụ nữ đó đều tin rằng đạo đức có một loại thực tế nào đó ở
bên ngoài cảm xúc và sự lựa chọn của mỗi cá nhân và thực tế này tồn tại ở đâu
đó bên ngoài, phía sau hoặc bên dưới những sự kiện có thể quan sát được của
vũ trụ hữu hình.
|
|
|
|
This conviction put them at odds with the prevailing trend of
philosophy at Oxford, a trend pioneered by A. J. Ayer, a logical positivist
who insisted that statements that cannot be verified by logic or measurement
are statements of value and therefore essentially meaningless — or
“nonsense!” as Ayer and his acolytes liked to shout whenever such statements
came up.
|
|
Niềm tin này đặt họ vào vị
thế mâu thuẫn với xu hướng triết học đang thịnh hành ở Oxford, một xu hướng
mà người đi tiên phong là A. J. Ayer, một nhà thực chứng lôgic đã khẳng định
rằng những lời tuyên bố không thể xác minh bằng logic hoặc phép đo lường là
những tuyên bố về chuẩn mực đạo đức và vì vậy về bản chất là vô nghĩa – hoặc
“vớ vẩn! ” như Ayer và những môn đệ của ông ta thích hét lên bất cứ khi nào
những tuyên bố như vậy được đưa ra.
|
|
|
|
Clare Mac Cumhaill, an associate professor of philosophy at Durham
University, and Rachael Wiseman, a lecturer at the University of Liverpool,
recount the history of this remarkable friendship in “Metaphysical Animals:
How Four Women Brought Philosophy Back to Life” — the second of two books
about the quartet (after Benjamin J. B. Lipscomb’s “The Women Are Up to
Something”) to be published in less than a year.
|
|
Clare Mac Cumhaill, phó
giáo sư triết học tại Đại học Durham, và Rachael Wiseman, giảng viên Đại học
Liverpool, thuật lại chi tiết câu chuyện lịch sử về tình bạn đáng chú ý này
trong cuốn “Metaphysical Animals: How Four Women Brought Philosophy Back to
Life” ("Động vật siêu hình: Bốn người phụ nữ đã hồi sinh triết học như
thế nào" – cuốn sách thứ hai
trong hai cuốn sách về bộ tứ này (sau cuốn “The Women Are Up to Something”
(“Những phụ nữ ấy đang toan tính một điều gì đó” của Benjamin J. B. Lipscomb)
được xuất bản trong vòng chưa đầy một năm.
|
|
|
|
In the chapter on the tearoom gathering, it explains Foot’s insight
about the word “rude,” which is most certainly employed in value statements,
but also, Foot pointed out, can’t be applied to just any action, such as
“walking up to a front door slowly or sitting on a pile of hay.”
|
|
Chương sách kể về buổi gặp mặt tại phòng trà
đã giải thích sự thấu hiểu của Foot về từ “rude” (“khiếm nhã”), từ này chắc
chắn được dùng nhiều nhất trong những tuyên bố về chuẩn mực đạo đức, song
ngoài ra, như Foot chỉ ra cho thấy, không thể sử dụng nó với bất kỳ hành động
nào, chẳng hạn như “từ từ bước đến cửa trước hoặc ngồi trên đống cỏ khô.”
|
|
|
|
“Rudeness” — for example, simply walking away from a person offering
a friendly greeting — refers to the violation of a shared norm of a human
community:
|
|
Từ “rudeness” (“sự khiếm
nhã”) – nói thí dụ, chỉ đơn giản là bỏ đi không đáp lời một người đang chào hỏi
thân thiện – đề cập đến việc vi phạm chuẩn mực chung của cộng đồng con người:
|
|
|
|
It is polite to acknowledge and return such greetings.
|
|
Phải nhận và đáp lại những
lời chào hỏi như vậy mới là lịch sự.
|
|
|
|
Human beings will instantly recognize that rudeness as a fact, even
if it has no material existence and isn’t inherent in the act of walking
away.
|
|
Con người sẽ lập tức nhận
ra sự khiếm nhã đó như một sự kiện thực tế, dù nó không phải dạng tồn tại hữu
hình và không cố hữu trong hành động bỏ đi kia.
|
|
|
|
“Metaphysical Animals” is also the sort of book that treats its
readers to an old photo of the Lyons’ tearoom, complete with waitresses in
frilled aprons, and to the gossipy revelation that, according to Midgley,
Anscombe took offense when Murdoch suggested that people sometimes found
Anscombe rude and walked out of the tearoom “in dignified silence.”
|
|
“Metaphysical Animals”cũng
là loại sách tặng cho người đọc một bức ảnh cũ chụp phòng trà Lyons với những
cô bồi bàn mặc tạp dề có diềm xếp nếp, và sự tiết lộ ngồi lê đôi mách rằng,
theo lời Midgley, Anscombe đã rất tự ái khi Murdoch ám chỉ rằng đôi khi mọi
người cũng thấy Anscombe khiếm nhã và bà bước ra khỏi phòng trà đó
"trong sự im lặng đầy phẩm giá."
|
|
|
|
The least well-known of the four friends, Midgley survived the
longest.
|
|
Là người ít nổi tiếng nhất
trong bộ tứ này, Midgley sống lâu nhất.
|
|
|
|
She died at the age of 99 in 2018, an influential figure in the area
of animal rights, but not before writing a letter to The Guardian in which
she asserted that women philosophers flourished in Oxford during and just
after World War II because “there were fewer men about then.”
|
|
Bà qua đời ở tuổi 99 năm
2018, là một nhân vật có ảnh hưởng trong lĩnh vực đấu tranh vì quyền động vật,
nhưng không phải là trước khi bà viết một bức thư cho tờ The Guardian khẳng định
rằng các nữ triết gia nở rộ ở Oxford trong và ngay sau Thế chiến II vì “hồi
đó nơi nào cũng ít đàn ông hơn.”
|
|
|
|
Furthermore, she added, the women’s style of philosophizing was less
aggressive and competitive, and also less likely to degenerate into a “set of
games” built “out of simple oppositions.”
|
|
Vả lại – bà viết thêm –
phong cách triết lý của phụ nữ ít hung hăng và cạnh tranh hơn, và cũng ít có
khả năng thoái hóa thành một “loạt các cuộc đấu trí” được xây dựng “từ những
đối lập đơn giản.”
|
|
|
|
Mac Cumhaill and Wiseman write that they read this letter when they had
been casting about for “a way to do philosophy in a more engaged, creative
and open way,” and sought out its author.
|
|
Mac Cumhaill và Wiseman viết
rằng họ đọc bức thư này khi họ đang xoay sở tìm “một đường lối để nghiên cứu
triết học theo cách toàn tâm toàn ý, sáng tạo và cởi mở hơn,” và đã tìm ra
tác giả của nó.
|
|
|
|
The interviews they conducted with Midgley at the retirement home
where she lived became the springboard for “Metaphysical Animals.”
|
|
Các cuộc phỏng vấn họ thực
hiện với Midgley tại viện dưỡng lão nơi bà sống đã trở thành đòn bẩy cho
“Metaphysical Animals.”
|
|
|
|
As this origin story suggests, the heart of this book resides in the
friendship among the four women and the ways they supported and influenced
one another.
|
|
Như câu chuyện khởi nguồn
này gợi ý, trọng tâm của cuốn sách nằm ở tình bạn giữa bốn người phụ nữ đó và
những cách họ hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau.
|
|
|
|
Anscombe, the most brilliant and gifted philosopher of the group, was
a protégée and friend of Ludwig Wittgenstein.
|
|
Anscombe, nữ triết gia lỗi
lạc và tài năng nhất trong nhóm, là người được bảo trợ và là bạn của Ludwig
Wittgenstein.
|
|
|
|
She translated and (with Rush Rhees) edited his posthumously
published “Philosophical Investigations” and was notable for, as Mac Cumhaill
and Wiseman put it, being “able to sustain her philosophical independence and
her sanity while so many others who found themselves drawn into
Wittgenstein’s orbit did not.”
|
|
Bà đã dịch và đã (cùng với
Rush Rhees) biên tập cuốn “Philosophical Investigations” (“Những nghiên cứu
triết học”) được xuất bản sau khi Wittgenstein mất, và nổi tiếng – theo lời
Mac Cumhaill và Wiseman – vì “có thể duy trì sự độc lập triết học và sự tỉnh
táo của bà trong khi rất nhiều người khác thấy mình bị cuốn hút vào quỹ đạo của
Wittgenstein đã không thể duy trì được.”
|
|
|
|
Married to a conscientious objector who had difficulty finding
remunerative work after the war, Anscombe was so poor that Wittgenstein paid
for her stay in a maternity hospital after the birth of her second child and
insisted on furnishing her spartan lodgings, announcing, “You are a writer,
you have to have a wastepaper basket.”
|
|
Kết hôn với người chồng phản
đối nhập ngũ và vì vậy ông rất khó tìm được việc làm được trả lương sau chiến
tranh, Anscombe nghèo đến nỗi Wittgenstein phải trả tiền cho bà nằm viện phụ
sản sau khi sinh đứa con thứ hai và nhất định đòi trang bị đồ đạc cho nơi ăn
chốn ở khổ hạnh của bà, ông tuyên bố: “Chị là một nhà văn, chị phải có một sọt
đựng giấy rác chứ.”
|
|
|
|
Many people did find Anscombe rude, especially the university
authorities who objected to her delivering lectures in trousers instead of
the required skirts.
|
|
Nhiều người thấy Anscombe
khiếm nhã, đặc biệt là những người có thẩm quyền ở trường đại học đã phản đối
việc bà mặc quần tây khi giảng bài thay vì mặc váy như quy định.
|
|
|
|
In the late ’40s, she and the “tall, tailored, poised” Foot could
often be found in the senior common room at Oxford’s Somerville College,
where all four friends first met, wrangling with Wittgenstein’s ideas.
|
|
Cuối những năm 1940, người
ta thường thấy bà và Philippa Foot “cao ráo, chỉn chu, đĩnh đạc” trong phòng
sinh hoạt chung của sinh viên năm cuối tại Đại học Somerville thuộc Đại học
Oxford – nơi bộ tứ này lần đầu gặp gỡ – tranh luận rất hăng về những tư tưởng
của Wittgenstein.
|
|
|
|
Foot, who would become Murdoch’s “lifelong best friend,” endured a
loveless upper-class childhood in a milieu where one of the worst things a
woman could do was appear intelligent.
|
|
Foot, người sẽ trở thành
“bạn thân suốt đời” của Murdoch, đã phải chịu đựng một thời thơ ấu của tầng lớp
thượng lưu rất thiếu tình thương, trong một môi trường mà một trong những điều
tồi tệ nhất mà một người phụ nữ có thể làm là tỏ ra thông minh.
|
|
|
|
Rebelling, she turned up at Somerville and despite having, by her own
admission, “no education,” managed to acquire enough command of Latin, Greek,
mathematics, political history and other subjects to graduate with a
first-class degree.
|
|
Nổi loạn, bà đến
Somerville và mặc dù tự nhận mình là "không được học hành", bà đã cố
gắng đạt đủ độ tinh thông tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, toán học, lịch sử chính
trị và các môn học khác để tốt nghiệp với tấm bằng hạng nhất.
|
|
|
|
She would go on to become a professor of philosophy at U.C.L.A. and
is considered one of the inventors of the “trolley problem,” a thought
experiment that poses the question of whether it is ethical to deliberately
sacrifice one person’s life to prevent the accidental deaths of five others.
|
|
Bà sẽ bước tiếp để trở
thành giáo sư triết học tại U.C.L.A. (Đại học California, Los Angeles) và được
coi là một trong những người sáng tạo ra "luận đề xe điện", một thử
nghiệm tư duy đặt ra câu hỏi liệu việc cố tình hy sinh mạng sống của một người
để tránh cho năm người khác khỏi bị chết vì tai nạn có hợp đạo lý hay không.
|
|
|
|
During the time when they were both employed in the war effort, Foot
and Murdoch shared a peculiar but beloved attic flat near Whitehall.
|
|
Trong thời gian cả hai
cùng bận rộn góp sức mình để thắng cuộc chiến tranh, Foot và Murdoch đã ở
chung một căn hộ áp mái kỳ quặc nhưng đáng yêu gần Whitehall.
|
|
|
|
It had no running water in the kitchen, and became even less
comfortable when each woman took up with one of the other’s ex-lovers, a
situation, the authors note, providing Murdoch with “the archetype of a
tangled erotic muddle for her novels.”
|
|
Căn nhà không có đường ống
nước trong bếp, và thậm chí còn trở nên kém thoải mái hơn thế khi mỗi người
phụ nữ cặp kè với một trong những người tình cũ của người kia, một tình huống
đã – theo lời các tác giả – cung cấp cho Murdoch “nguyên mẫu của một tình trạng
rối rắm về tình dục cho tiểu thuyết của bà.”
|
|
|
|
Murdoch, the charismatic artist in the group, was a professed
Communist who liked to hit up London’s bohemian dives in search of “Ultimate
Human Beings” and collected marriage proposals the way little boys collect
baseball cards.
|
|
Murdoch, nhà nghệ sĩ có sức
lôi cuốn trong nhóm, là một người tự xưng là Cộng sản thích la cà ở những
quán bar Di-gan tại London để tìm kiếm “Những Con người Tối thượng” và thu thập
những lời cầu hôn theo cái cách những cậu bé thu thập thẻ bóng chày.
|
|
|
|
She had bad luck with the ones she accepted, however.
|
|
Thế nhưng bà đã chẳng may
mắn gì với những người mà bà đã nhận lời.
|
|
|
|
One fiancé left her for a woman who was less “formidable,” and
another suffered a fatal heart attack soon after they agreed to marry.
|
|
Một vị hôn phu đã bỏ bà để
theo một người phụ nữ ít “dữ dội” hơn, và một người khác bị một cơn đau tim
chí tử ngay sau khi họ đồng ý kết hôn.
|
|
|
|
The biographical material in “Metaphysical Animals” is evocative and
sparkling, sketching each woman’s character with a novelist’s mastery of
detail.
|
|
Tư liệu tiểu sử trong
“Metaphysical Animals” gợi liên tưởng và sinh động, phác họa tính cách của mỗi
người phụ nữ bằng sự tinh thông đến từng chi tiết của một tiểu thuyết gia.
|
|
|
|
The photographs — Murdoch’s peculiar flat, the common room where
Anscombe and Foot debated, the tea-stained cover of a pamphlet Anscombe
co-wrote at the beginning of the war, personal letters illustrated with
hand-drawn cartoons — provide a charming sense of intimacy and the texture of
everyday midcentury British life, its teacups and cats and ration coupons.
|
|
Những bức ảnh – căn hộ kỳ
quặc của Murdoch, phòng sinh hoạt chung nơi Anscombe và Foot tranh luận,
trang bìa bị ố nước trà của cuốn sách nhỏ mà Anscombe là đồng tác giả thời kỳ
đầu chiến tranh, những bức thư cá nhân được minh họa bằng những tranh biếm họa
vẽ tay – mang lại một cảm giác thân quen rất cuốn hút và cho thấy bố cục đời
sống hàng ngày ở Anh giữa thế kỷ, với những tách trà, những con mèo và phiếu
khẩu phần ăn.
|
|
|
|
What’s less persuasive is the book’s overall thesis that the four
friends somehow redirected the course of British philosophy or even that they
shared a distinct cause or approach.
|
|
Cái kém thuyết phục hơn là
luận đề tổng thể của cuốn sách rằng bộ tứ đó bằng cách nào đó đã chuyển hướng
dòng chảy của triết học Anh hoặc thậm chí họ cùng chia sẻ một mục đích hoặc
cách tiếp cận khác biệt.
|
|
|
|
This never comes into focus.
|
|
Điều này chẳng bao giờ được
làm nổi bật hẳn lên trong cuốn sách.
|
|
|
|
Anscombe, for example, was a committed Catholic who opposed both
birth control and abortion.
|
|
Anscombe, chẳng hạn, là một
người Công giáo tận tâm, phản đối cả việc kiểm soát sinh sản và phá thai.
|
|
|
|
Foot was an atheist who told Anscombe that she saw no good reason to
believe otherwise.
|
|
Foot là một người vô thần
đã nói với Anscombe rằng bà chẳng thấy có lý do nào chính đáng để tin khác
đi.
|
|
|
|
Murdoch was drawn to existentialism and published the first
English-language book on Sartre.
|
|
Murdoch bị chủ nghĩa hiện
sinh cuốn hút và đã xuất bản cuốn sách bằng tiếng Anh đầu tiên về Sartre.
|
|
|
|
Midgley became increasingly interested in the similarities between
human beings and animals.
|
|
Midgley ngày càng quan tâm
đến sự tương đồng giữa con người và con vật.
|
|
|
|
Many of the ideas touched on — Anscombe’s in particular — are too
challenging to summarize in a book with so many other balls in the air.
|
|
Rất nhiều trong số những
tư tưởng được đề cập đến – đặc biệt là của Anscombe – là quá khó để tóm lược
vào một cuốn sách với quá nhiều chi tiết phải xử lý.
|
|
|
|
The four unconventional friends are delightful enough company that
their story doesn’t require the “How X changed the world” overlay often used
to pump up the import of popular nonfiction.
|
|
Bốn người bạn độc đáo ấy
đã là một nhóm đủ thú vị nên câu chuyện của họ chẳng cần phải tô vẽ thêm bằng
câu “X đã thay đổi thế giới như thế nào” thường được sử dụng để thổi phồng nội
dung của loại sách phi hư cấu phổ biến.
|
|
|
|
To impose that theme on their story is to reduce it to one of those
“simple oppositions” that Midgley herself complained about, a form that could
never do justice to these four fascinating women.
|
|
Áp đặt chủ đề đó vào câu
chuyện của họ là hạ thấp nó xuống tầm một trong những “sự đối lập đơn giản”
mà chính Midgley đã phàn nàn về nó, một hình thức không bao giờ có thể thể hiện
đầy đủ giá trị của bốn người phụ nữ hấp dẫn này.
|