Khi bạo lực núp bóng đạo luật Jim Crow lan đến một ngôi làng nhỏ ở New York

25 6 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Khi bạo lực núp bóng đạo luật Jim Crow lan đến một ngôi làng nhỏ ở New York

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

When Jim Crow Violence Came to a Small New York Village

 

Khi bạo lực núp bóng đạo luật Jim Crow lan đến một ngôi làng nhỏ ở New York

 

 


 

Philip Dray’s book “A Lynching at Port Jervis” unearths the history of an 1892 murder of a Black man at the hands of a white mob.

 

Cuốn sách “A Lynching at Port Jervis” (“Cuộc hành hình kiểu Lynch  tại Port Jervis”) của tác giả Philip Dray đã phát lộ lịch sử vụ sát hại một người đàn ông da đen năm 1892 dưới tay một đám đông da trắng.

 

 

 

On June 2, 1892, a white mob seized a Black man and hanged him from the high branch of an old maple tree in Port Jervis, N.Y.

 

Ngày 2 tháng 6 năm 1892, một đám đông da trắng đã tóm một người đàn ông da đen và treo cổ anh ta lên cành cao của một cây thích cổ thụ ở Port Jervis, New York.

 

 

 

Several days later, a jury took all of an hour to deliver its verdict on what had happened:

 

Ít hôm sau, bồi thẩm đoàn chỉ mất một giờ đồng hồ để đưa ra phán quyết về việc đã xảy ra:

 

 

 

“Robert Lewis came to his death in the village of Port Jervis on June 2nd by being hanged by his neck by a person or persons unknown.”

 

"Robert Lewis đã chết tại làng Port Jervis ngày 2/6 do bị treo cổ bởi một người hoặc những người không rõ danh tính".

 

 

 

The language for the verdict was passive and ungainly — a sentence that has to tie itself into knots in order to bear such moral contortions.

 

Lời lẽ của phán quyết đó thật vô cảm và vô duyên – một bản án tự bó buộc mình để chống đỡ cho những sự bóp méo đạo đức như vậy.

 

 

 

Lewis was the victim of a lynch mob that attacked him after hearing rumors that he had sexually assaulted a white woman.

 

Lewis là nạn nhân của một cuộc hành hình kiểu Lynch bởi cái đám đông đã tấn công anh ta sau khi nghe đồn rằng anh ta đã tấn công tình dục một phụ nữ da trắng.

 

 

 

The lynching had been witnessed by 2,000 people, yet nobody was held responsible for Lewis’s murder.

 

Vụ hành hình đó đã được 2.000 người tận mắt chứng kiến, song chẳng một ai phải chịu trách nhiệm về vụ sát hại Lewis.

 

 

 

By killing a man and not being punished for it, the mob had thereby achieved two goals — absolute power and absolute impunity.

 

Bằng việc sát hại một người và không bị trừng phạt vì điều đó, đám đông kia đã đạt được hai mục tiêu – quyền lực tuyệt đối và sự miễn trừng phạt tuyệt đối.

 

 

 

As Philip Dray puts it in his new book, “A Lynching at Port Jervis,” “The mob had not only ‘convicted’ and summarily executed Robert Lewis; it had now literally acquitted itself.”

 

Như Philip Dray nói trong cuốn sách mới “A Lynching at Port Jervis”của mình: “Đám đông đó không chỉ‘ kết án và hành quyết Robert Lewis ngay tức khắc; lúc bấy giờ nó đã tự tuyên bố trắng án theo đúng nghĩa đen”.

 

 

 

Dray is also the author of “At the Hands of Persons Unknown” (2002), a comprehensive history of lynching in the United States.

 

Dray cũng là tác giả của “At the hands of Unknown "(2002) (”Dưới bàn tay những kẻ vô danh”), một cuốn lịch sử toàn diện về kiểu hành hình Lynch ở Mỹ.

 

 

 

The title for that earlier book suggested how typical it was for lynch mobs to cultivate a pointed anonymity.

 

Tiêu đề của cuốn sách ra trước ấy gợi ra rằng đối với những đám đông chuyên hành hình kiểu Lynch thì khuyến khích một sự nặc danh công khai là đặc trưng đến mức nào.

 

 

 

In addition to serving the practical purpose of protecting lynchers from arrest and prosecution, the sense of collective irresponsibility had a symbolic function, too.

 

Ngoài việc phục vụ mục đích thiết thực là bảo vệ những kẻ tham gia hành hình kiểu Lynch khỏi bị bắt và truy tố, ý thức về sự vô trách nhiệm tập thể còn có chức năng biểu tượng nữa.

 

 

 

“The lynching was seen as a conservative act, a defense of the status quo,” Dray wrote in “At the Hands.”

 

“Hành hình kiểu Lynch đã được coi là một hành động truyền thống, một sự bảo vệ nguyên trạng xã hội” Dray đã viết như vậy trong cuốn “At the Hands”.

 

 

 

“No persons had committed a crime, because the lynching had been an expression of the community’s will.”

 

“Chẳng có ai phạm tội, bởi vì hành hình kiểu Lynch* là sự thể hiện ý chí của cộng đồng.”

 

 

 

What distinguished the Port Jervis lynching was where it happened.

 

Cái làm nên sự khác biệt của vụ hành hình kiểu Lynch ở Port Jervis là địa điểm nơi nó xảy ra.

 

 

 

Of the 1,134 recorded lynchings of Black people in the United States between 1882 and 1899, it was the only one to take place in New York State.

 

Trong số 1.134 vụ hành hình kiểu Lynch đối với người da đen được ghi lại ở Mỹ từ năm 1882 đến năm 1899, đây là vụ duy nhất diễn ra ở Bang New York.

 

 

 

Port Jervis was a thriving town just 65 miles from Manhattan — a rail and manufacturing hub that prided itself on being the first municipality in the area to install electric street lamps.

 

Port Jervis là một thị trấn thịnh vượng chỉ cách Manhattan 65 dặm đường – một trung tâm đường sắt và sản xuất từng tự hào là đô thị đầu tiên trong khu vực đã mắc đèn điện trên đường phố.

 

 

 

Dray describes how the crowd that attacked Lewis had paused beneath those street lamps — “the very symbol of Port Jervis’s most progressive aspirations” — sizing them up to decide whether they were sturdy enough for a hanging.

 

Dray miêu tả cái cách đám đông tấn công Lewis đã dừng lại bên dưới những ngọn đèn đường đó như thế nào – những ngọn đèn “chính là biểu tượng cho những khát vọng tiến bộ nhất của Port Jervis” – họ ước lượng kích cỡ của chúng để xác quyết liệu chúng có đủ vững chắc để làm giá treo cổ hay không.

 

 

 

Northerners who wanted to see lynching as a Southern problem couldn’t comfort themselves with their own pretensions to enlightenment.

 

Những người miền Bắc muốn coi việc hành hình kiểu Lynch như một vấn đề của miền Nam không thể tự an ủi mình bằng những kỳ vọng khai sáng của chính họ.

 

 

 

A newspaper headline the next day stated simply: SOUTHERN METHODS OUTDONE.

 

Một tít báo ngày hôm sau đã tuyên bố một cách đơn giản: NHỮNG CÁCH THỨC MIỀN NAM VƯỢT TRỘI HƠN HẲN.

 

 

 

“A Lynching at Port Jervis” happens to arrive just over a week after a white supremacist murdered 10 Black people at a grocery store in Buffalo.

 

Cuốn “A Lynching at Port Jervis” tình cờ ra mắt chỉ hơn một tuần sau khi một kẻ theo thuyết thượng tôn da trắng sát hại 10 người da đen tại một cửa hàng tạp hóa ở Buffalo.

 

 

 

Dray himself says that while his earlier books on civil rights history were guided by a confidence in racial progress, this time he doesn’t feel so sure.

 

Bản thân Dray nói rằng trong khi những cuốn sách trước đây của anh về lịch sử dân quyền được dẫn dắt bởi niềm tin vào sự tiến bộ về chủng tộc, thì lần này anh không cảm thấy tin chắc như vậy.

 

 

 

In addition to diminished voting rights and persistent police brutality, he cites the resurgence of armed vigilantism as an eruption of some very old forces “that refuse to die.”

 

Ngoài quyền bầu cử bị giảm bớt và hành động tàn bạo dai dẳng của cảnh sát, anh còn cho rằng sự trỗi dậy của việc thực thi pháp luật tự phát có vũ trang là sự bùng phát của một số thế lực rất cũ “không chịu chết”.

 

 

 

Dray deems the insurrectionists at the Capitol on Jan. 6 prime examples of what Abraham Lincoln called the “mobocratic spirit,” a lawless disorder that speaks the language of law and order.

 

Dray coi những kẻ nổi dậy ở Điện Capitol hôm 6/1 là ví dụ chuẩn nhất cho cái mà Abraham Lincoln gọi là “tinh thần thống trị của đám đông”, một sự náo loạn vô pháp mà lại nhân danh luật pháp và trật tự.

 

 

 

Lincoln said that this combination of arrogance and violence was what made vigilantism both spectacularly destructive and insidiously corrosive.

 

Lincoln đã nói rằng sự kết hợp giữa kiêu ngạo và bạo lực chính là cái khiến cho việc thực thi pháp luật tự phát vừa có sức tàn phá cực kỳ khủng khiếp vừa có tính hủy hoại ngấm ngầm.

 

 

 

In the first part of his book, Dray guides us through the convoluted circumstances that led to Lewis’s murder, which involved a young white woman named Lena McMahon and her white suitor, Philip Foley.

 

Trong phần đầu của cuốn sách này, Dray dẫn dắt chúng ta đi qua những hoàn cảnh phức tạp dẫn đến vụ sát hại Lewis, có liên quan đến một phụ nữ da trắng trẻ tuổi tên là Lena McMahon và Philip Foley người đeo đuổi cô ta cũng là một người da trắng.

 

 

 

When seized by the mob, Lewis allegedly confessed to assaulting her, saying that Foley put him up to it; at another point Lewis denied any involvement altogether.

 

Khi bị đám đông bắt giữ, Lewis được cho là đã thú nhận việc tấn công cô này khi nói rằng Foley đã khiến anh ta làm việc đó; ở một thời điểm khác, Lewis phủ nhận hoàn toàn mọi liên quan đến vụ việc.

 

 

 

McMahon, for her part, said she had been attacked by a Black man.

 

Về phần McMahon, cô ta nói rằng mình đã bị một người đàn ông da đen tấn công.

 

 

 

Foley said he wasn’t there and so didn’t see what had happened.

 

Foley nói rằng anh ta không có mặt ở đó và vì vậy không chứng kiến những gì đã xảy ra.

 

 

 

McMahon’s parents despised Foley and accused him of blackmailing the family by threatening to release some incriminating (and unspecified) information about their daughter.

 

Cha mẹ của McMahon khinh miệt Foley và cáo buộc anh ta về tội tống tiền gia đình họ bằng cách đe dọa tiết lộ một số thông tin có tính buộc tội (và không rõ ràng) về con gái của họ.

 

 

 

When Lena’s father entered the courtroom, he lunged at Foley and yelled, “He is the Negro that ought to have been hung.”

 

Khi cha của Lena bước vào phòng xử án, ông ta lao vào Foley và thét lên: "Hắn là tên mọi đen đáng lẽ phải bị treo cổ".

 

 

 

Dray is an excellent and conscientious storyteller, taking care to alert us when the historical record is spotty or ambiguous while still offering vivid specifics wherever he can.

 

Dray là người kể chuyện xuất sắc và chu đáo, luôn lưu tâm cảnh báo cho chúng ta khi ghi chép lịch sử không nhất quán hoặc mơ hồ, đồng thời vẫn đưa ra những chi tiết sống động ở bất kỳ chỗ nào có thể.

 

 

 

We learn that the railway in Port Jervis brought pride but also danger, with one elderly woman in town making a professional specialty of plucking out the hot cinders that flew from the locomotives into children’s eyes.

 

Chúng ta biết được rằng tuyến đường sắt ở Port Jervis mang lại niềm tự hào nhưng cũng mang lại mối hiểm nguy, qua hình ảnh một người phụ nữ cao tuổi trong thị trấn đã làm một nghiệp vụ chuyên môn là nhể những hạt xỉ than còn nóng bay từ đầu máy xe lửa vào mắt trẻ em.

 

 

 

Dray conveys how the cacophony of the crowd that killed Lewis was compounded by a participant who spoke through a tube in his throat:

 

Dray đã truyền tải được cái cách âm thanh chối tai của đám đông đã sát hại Lewis được làm cho tồi tệ thêm bởi một người tham gia đã nói qua một cái ống nằm trong cổ họng của anh ta:

 

 

 

“His croaking, mechanically altered utterances added greatly to the sense of disorder.”

 

“Những lời ồm ồm, bị máy móc làm cho biến đổi của anh ta đã làm tăng cảm giác rối loạn lên rất nhiều”.

 

 

 

Even though some white Port Jervians expressed shock that a lynching had occurred in a quaint little burg like theirs, the writer Stephen Crane didn’t seem so surprised.

 

Cho dù một số người da trắng ở Port Jervis đã tỏ ra sửng sốt khi một vụ hành hình kiểu Lynch đã xảy ra trong một thị trấn nhỏ bé xinh đẹp như thị trấn của họ, song nhà văn Stephen Crane dường như không ngạc nhiên đến thế.

 

 

 

Having left the Port Jervis of his childhood for the Jersey Shore, Crane heard that his older brother William had tried to stop the mob from murdering Lewis.

 

Sau khi rời khỏi Port Jervis thị trấn tuổi thơ của mình để đến Jersey Shore, Crane nghe nói rằng anh trai William của ông đã cố gắng ngăn cản không để đám đông sát hại Lewis.

 

 

 

Five years later, Crane wrote “The Monster,” a novella about a Black man who becomes disfigured saving a white child from a fire, and about the small town where they live, which was itself long disfigured by bigotry and intolerance.

 

Năm năm sau, Crane viết “The Monster” (“Quái vật”), một truyện dài kể về một người đàn ông da đen mặt mũi trở nên biến dạng khi cứu một đứa trẻ da trắng khỏi đám cháy, và về cái thị trấn nhỏ nơi họ sống, mà bản thân cái thị trấn ấy cũng bị biến dạng từ lâu bởi sự cố chấp và không khoan dung.

 

 

 

By the summer of 1892, the African American journalist Ida B. Wells had recently relocated to New York City from Memphis, where her newspaper’s office was destroyed by a mob that was outraged by her reports about lynch mobs.She speculated that Lena McMahon may have been having a consensual affair with Robert Lewis — hence, Wells argued, the murky insinuations in Foley’s blackmail letters.

 

Mùa hè năm 1892, nhà báo người Mỹ gốc Phi Ida B. Wells vừa chuyển đến thành phố New York từ Memphis, nơi tòa soạn của bà đã bị phá hủy bởi một đám đông phẫn nộ vì những bài báo của bà về những đám đông hành hình kiểu Lynch. Bà suy đoán rằng Lena McMahon hẳn là đang có quan hệ tình ái đồng thuận với Robert Lewis – Wells lập luận rằng vì vậy mới có những lời ám chỉ đáng ngờ trong những bức thư tống tiền của Foley.

 

 

 

Dray is agnostic on this question, an answer to which wouldn’t change the fact that a crowd kidnapped a man and hanged him from a tree: Absolutely nothing could justify the mob’s behavior.

 

Dray hoài nghi câu hỏi này, vì câu trả lời cho nó sẽ không thể thay đổi sự thật rằng một đám đông đã bắt cóc một người đàn ông và treo cổ anh ta lên cây: tuyệt nhiên chẳng có gì có thể biện minh cho cách hành xử của đám đông đó.

 

 

 

That lynching was both a criminal act and a moral atrocity should have made the need for federal anti-lynching legislation obvious to anyone who cared about the rule of law.

 

Rằng hành hình kiểu Lynch vừa là một hành động tội phạm vừa là một sự tàn bạo về mặt đạo đức lẽ ra đã phải khiến đạo luật chống hành hình kiểu Lynch của liên bang trở nên điều cần thiết hiển nhiên đối với bất kỳ ai quan tâm đến pháp quyền.

 

 

 

But one larger story that emerges from “A Lynching at Port Jervis” is how, for all the work of Wells and other anti-lynching activists, it took decades to achieve any legal inroads on “one of the very few issues impacting Black lives outrageous enough to arouse white concern,” as Dray writes.

 

Nhưng câu chuyện lớn hơn nổi bật lên từ cuốn “A Lynching at Port Jervis” là, với tất thảy hành động của Wells và các nhà hoạt động chống lại hành hình kiểu Lynch khác, làm sao mà lại phải mất nhiều thập kỷ để có thể thực hiện được bất kỳ sự thâm nhập pháp lý nào vào “một trong số rất ít những vấn đề gây tác động đến cuộc sống của người da đen một cách đủ tàn bạo để khơi dậy mối quan tâm của người da trắng”, như Dray viết.

 

 

 

Even then, his epilogue ends in medias res — with a man who was raised in Port Jervis remembering how the white boys would bully Black boys like him.

 

Thậm chí là sau đó, lời bạt của anh kết thúc lửng lơ – với một người đàn ông lớn lên ở Port Jervis nhớ lại cái cách những thằng bé da trắng thường bắt nạt những thằng bé Da đen như anh ra sao.

 

 

 

Dray seems to sense that the story he has written remains unfinished; what happened in Buffalo earlier this month suggests that a terrible legacy from more than a century before lingers still.

 

Dray dường như cảm nhận được rằng câu chuyện anh vừa viết xong vẫn chưa kết thúc; những gì xảy ra ở Buffalo hồi đầu tháng này khiến ta nghĩ rằng một di chứng khủng khiếp từ hơn một thế kỷ trước vẫn còn rơi rớt lại.


* một kiểu hành hình người bị coi là có tội  một cách phi pháp – thường là xử giảo –bởi một đám đông mà không đưa ra tòa phân xử.  

A LYNCHING AT PORT JERVIS
Race and Reckoning in the Gilded Age
By Philip Dray
Illustrated. 260 pages. Farrar, Straus & Giroux. $29.

Chia sẻ: