Diego Maradona: Thiên tài bóng đá, Chàng trai hư khổ sở

8 6 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Diego Maradona: Thiên tài bóng đá, Chàng trai hư khổ sở

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Diego Maradona: Soccer’s Brilliant, Tortured Bad Boy

 

Diego Maradona: Thiên tài bóng đá, Chàng trai hư khổ sở

 

 


 

“Gods do not retire,” Eduardo Galeano once said of Diego Maradona, “no matter how human they may be.”

 

"Thánh thần thì không có chuyện về vườn", Eduardo Galeano có lần đã nói về Diego Maradona, "dù có là “người” đến mức nào chăng nữa".

 

 

 

A desperate Maradona considered doing just that.

 

Một Maradona trong lúc tuyệt vọng đã cân nhắc làm chính cái chuyện đó.

 

 

 

He was only 20 years old when quitting soccer first crossed his mind, as he was crumbling under the pressure of sudden stardom while traveling on a world tour with the Argentine club Boca Juniors.

 

Ý muốn từ bỏ bóng đá thoáng qua tâm trí ông lần đầu khi ông chỉ mới 20 tuổi, là lúc ông đang suy sụp dưới áp lực của việc đột nhiên trở thành ngôi sao khi đi thi đấu vòng quanh thế giới với câu lạc bộ Boca Juniors của Argentina.

 

 

 

“I can’t sleep. I can’t handle the fame, I can’t relax anywhere,” he told one of his teammates.

 

“Tôi không ngủ được. Tôi không thể ứng phó với sự nổi tiếng đó, ở bất kỳ đâu tôi cũng không thể thư giãn nghỉ ngơi được”, ông nói với một trong những đồng đội của mình.

 

 

 

To somebody else he said, “I want people to forget about Maradona.”

 

Với ai đó khác, ông đã bảo: "Tôi muốn mọi người quên Maradona đi".

 

 

 

The warning signs were always there, Guillem Balagué, a Spanish soccer journalist, suggests in his new biography, “Maradona.”

 

Đã luôn hiển hiện những dấu hiệu cảnh báo như vậy, Guillem Balagué, một nhà báo Tây Ban Nha chuyên viết về bóng đá, đưa ra giả thuyết đó trong "Maradona", cuốn tiểu sử mới của anh.

 

 

 

Balagué, drawing from several books, documentaries and archival clips from Spanish-language media, covers well-trodden territory:

 

Balagué đã sử dụng một số cuốn sách, phim tài liệu và hồ sơ lưu trữ từ các kênh truyền thông tiếng Tây Ban Nha để viết về một lĩnh vực đã nhiều người bước vào:

 

 

 

Maradona’s austere childhood in the Buenos Aires slums of Villa Fiorito; his disgraced exit from Barcelona; the two outrageous goals against England in the 1986 World Cup; the subsequent spiral into addiction later that year; his failed drug test in 1991; the 15-month ban; and the slow, stuttering road to retirement.

 

Tuổi thơ khắc khổ của Maradona trong khu ổ chuột Villa Fiorito ở Buenos Aires; việc ông rời khỏi câu lạc bộ Barcelona một cách đáng hổ thẹn; hai bàn thắng xuất thần vào lưới đội tuyển Anh ở World Cup 1986; tiếp theo là ngày càng dấn sâu vào nghiện ngập [ma túy] cuối năm đó; việc ông không qua được lần xét nghiệm ma túy năm 1991; lệnh cấm thi đấu 15 tháng; và con đường chầm chậm, đầy vấp váp dẫn đến chỗ về hưu.

 

 

 

None of which, admittedly, is particularly new.

 

Phải thừa nhận rằng không có sự kiện nào trong số đó là đặc biệt mới.

 

 

 

What differentiates Balagué’s biography from previous attempts is his access to members of Maradona’s inner circle, especially his longtime personal trainer, giving a fresh texture and context to Maradona’s victories and crises.

 

Cái làm nên sự khác biệt trong cuốn tiểu sử mà Balagué viết so với những tác phẩm đầy nỗ lực ra trước nó là việc ông tiếp cận với các thành viên trong cái nhóm thân thiết nhất với Maradona, đặc biệt là huấn luyện viên cá nhân lâu năm của ông, việc này đã mang đến một kết cấu và bối cảnh mới mẻ cho những chiến thắng và khủng hoảng của Maradona.

 

 

 

Early on, it becomes clear in Balagué’s narrative that the story of Maradona is also a parable for the ruthless nature of commercial sports.

 

Ngay từ rất sớm, trong cách kể chuyện của Balagué đã thấy rõ rằng câu chuyện về Maradona cũng là một truyện ngụ ngôn về bản chất tàn nhẫn của thể thao thương mại.

 

 

 

Every club Maradona signed with struggled to afford him.

 

Mọi câu lạc bộ mà Maradona ký hợp đồng đều phải vật lộn để đủ tiền mua được ông.

 

 

 

To get their money’s worth, club executives took on risky loans and often crammed schedules with exhibition games, forcing their teams to play through fatigue and injuries.

 

Để bõ đồng tiền mà họ đã bỏ ra, các giám đốc điều hành câu lạc bộ đã chấp nhận những khoản vay rủi ro và thường nhồi nhét những cuộc thi đấu giao hữu đầy chặt lịch trình, buộc các đội bóng của họ phải thi đấu kể cả trong tình trạng mệt mỏi và bị chấn thương.

 

 

 

(Maradona’s body, Balagué mentions repeatedly, was regularly “abused” with painkillers, anti-inflammatory drugs and steroid injections.)

 

(Thân thể Maradona, như Balagué nhiều lần nhắc đến, đã thường xuyên bị "lạm dụng" bằng thuốc giảm đau, thuốc chống viêm và những mũi tiêm steroid*.)

 

 

 

Players made only a fraction of the revenue they generated, and while Maradona typically got the biggest cut, he was also a nuisance for the big suits, agitating for higher collective wages, speaking out against playing conditions and, at one point, calling for the creation of an athletes’ union to challenge FIFA’s tightening grip on world soccer.

 

Các cầu thủ chỉ kiếm được một phần doanh thu mà họ tạo ra và trong khi Maradona thường được hưởng nhiều nhất, ông đồng thời cũng là một mối phiền toái vì những vụ kiện lớn, công khai vận động đòi mức lương cho toàn đội cao hơn, lên tiếng phản đối điều kiện thi đấu và có thời điểm đã kêu gọi thành lập một liên đoàn vận động viên để chính thức phản đối sự o ép ngày càng căng của FIFA đối với bóng đá thế giới.

 

 

 

This inevitably led to friction, as did the intrigue around Maradona’s personal life and his unpredictable, acerbic comments to the press.

 

Điều này chắc chắn đã dẫn đến va chạm, cũng như những tình tiết xung quanh cuộc đời tư của Maradona và những bình luận gay gắt, khó đoán trước của ông với báo chí.

 

 

 

When results on the field did not shake out, tensions bubbled quickly.

 

Khi kết quả trên sân không tới, căng thẳng nhanh chóng sôi sục.

 

 

 

After he incited a brawl during a cup match, Barcelona offloaded him immediately.

 

Sau khi ông khơi mào vụ ẩu đả trong một trận đấu tranh cúp, Barcelona đã chuyển nhượng ông ngay lập tức.

 

 

 

At Napoli, Balagué suggests, the club president encouraged, perhaps even leaked, negative stories.

 

Tại câu lạc bộ Napoli, theo giả thuyết của Balagué, chủ tịch câu lạc bộ này khuyến khích, có lẽ thậm chí còn tiết lộ, những câu chuyện tiêu cực.

 

 

 

Sevilla, by then weary of Maradona’s antics, pre-emptively hired detectives to compile dossiers for the blackmail they reportedly used to terminate his contract.

 

Sevilla, lúc bấy giờ đã chán ngấy những trò hề của Maradona, bèn ra tay trước bằng cách thuê các thám tử thu thập hồ sơ cho vụ tống tiền mà người ta cho rằng họ đã sử dụng để chấm dứt hợp đồng của ông.

 

 

 

The result was a persecution complex that would last until his death in 2020.

 

Kết quả của việc đó là chứng phức cảm bị ngược đãi kéo dài tận đến khi ông qua đời năm 2020.

 

 

 

Maradona himself oscillated between an infectious, indignant confidence that fueled his exploits and a deep, crushing anxiety that would ultimately consume his career.

 

Bản thân Maradona dao động giữa sự tự tin dễ lây, đầy khiêu khích đã thúc đẩy những chiến công của ông và nỗi lo lắng sâu sắc, dày vò mà rốt cuộc sẽ hủy hoại sự nghiệp của ông.

 

 

 

At his most vulnerable, Maradona would lock himself in his bathroom for hours, in days and nights full of “crying, anguish and anxiety,” as he later confessed.

 

Vào lúc dễ bị tổn thương nhất, Maradona nhốt mình trong phòng tắm hàng giờ, trong những ngày đêm đầy “khóc lóc, thống khổ và lo lắng”, như sau này ông thú nhận.

 

 

 

Once, he flushed cocaine down the toilet upon hearing his daughter’s voice outside the door.

 

Có lần ông xả cocaine xuống bồn cầu khi nghe tiếng con gái mình ngoài cửa.

 

 

 

When he wasn’t locked in his bathroom, he would lie paralyzed in bed, bingeing anti-anxiety medication, skipping practice, commercial obligations and any other responsibilities.

 

Khi không nhốt mình trong phòng tắm, ông sẽ nằm lì trên giường, uống quá liều thuốc chống lo âu, bỏ bễ tập tành, các nghĩa vụ quảng cáo và bất kỳ trách nhiệm nào khác.

 

 

 

These moments, when Balagué is at his best, are rendered in highly readable, if sometimes clumsy, prose.

 

Những khoảnh khắc này, là khi Balagué viết hay nhất, được diễn tả bằng văn xuôi rất trong sáng, dù đôi khi hơi rắc rối.

 

 

 

But this biography falls short in many other ways.

 

Nhưng cuốn tiểu sử này về nhiều mặt khác vẫn còn thiếu sót.

 

 

 

Any discussion of Argentine politics is strained, ham-fisted and usually treated as a vehicle for highlighting Maradona’s sometimes unifying, other times polarizing effect.

 

Bất kỳ cuộc thảo luận nào về chính sự của Argentina đều gượng ép, vụng về và thường được coi như một phương tiện để làm nổi bật ấn tượng về một Maradona lúc thì hợp nhất lúc thì phân cực.

 

 

 

His long, if disappointing, coaching career receives only fleeting mention, as does the ongoing struggle with addiction that slowly led to his death.

 

Sự nghiệp làm huấn luyện viên kéo dài, chưa nói là đáng thất vọng của ông chỉ được đề cập thoáng qua, cũng như cuộc đấu tranh không ngừng với chứng nghiện ngập đã từ từ dẫn đến cái chết của ông.

 

 

 

The result is an incomplete portrait.

 

Kết quả là một bức chân dung không hoàn chỉnh.

 

 

 

Perhaps a small consolation is that this biography is not the first — a recently updated book by Jimmy Burns, from 1996, covers much of the same ground — and almost certainly won’t be the last.

 

Có lẽ niềm an ủi nho nhỏ là cuốn tiểu sử này không phải là cuốn đầu tiên – một cuốn của Jimmy Burns từ năm 1996 mới được cập nhật gần đây đã đề cập đến nhiều vấn đề y hệt –  và hầu như chắc chắn sẽ không phải là cuốn cuối cùng.

 

 

 

Since his death at 60, Maradona has continued to generate headlines, most recently through a lawsuit alleging manslaughter by his doctors and nurses and several contested paternity suits.

 

Kể từ khi qua đời ở tuổi 60, Maradona vẫn tiếp tục được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông, gần đây nhất là qua một vụ kiện cáo buộc các bác sĩ và y tá của ông ta ngộ sát và một số vụ kiện tranh cãi về quan hệ cha con.

 

 

 

As Balagué writes, the narratives of soccer’s heroes and villains, often defined in the span of mere seconds, are “built on quicksand.”

 

Như Balagué viết, những câu chuyện về những người hùng và kẻ tội đồ của bóng đá, thường được xác định tính cách chỉ trong vài giây, được “xây dựng trên nền cát lún”.

 

 

 

Maradona’s legacy rests on firm ground, but there’s a sense that it is only now fully unraveling.

 

Di sản của Maradona được đặt trên nền tảng vững chắc, nhưng có cảm giác rằng chỉ đến bây giờ nó mới hoàn toàn sáng tỏ.


*steroid đồng hóa: là dạng testosterone tổng hợp, một loại nội tiết tố nam giúp phát triển các khối cơ. Steroid đồng hóa được sử dụng qua đường uống hoặc tiêm bắp. Bác sĩ có thể chỉ định steroid đồng hóa một cách hợp pháp nếu bệnh nhân thiếu testosterone, chẳng hạn như trường hợp một nam thiếu niên dậy thì muộn. Bác sĩ cũng có thể kê steroid đồng hóa cho các nam giới có nồng độ testosterone thấp và những người bị tiêu khối cơ do ung thư, AIDS, và các bệnh lý khác.

MARADONA
The Boy. The Rebel. The God.
By Guillem Balagué
Illustrated. 362 pp. Weidenfeld & Nicolson/Hachette Book Group. $28.99.


Chia sẻ: