Harry Truman: Vị tổng thống bình dân

4 5 / 2022
Đăng bởi: lovebird21c

Harry Truman: Vị tổng thống bình dân

nguồn: New York Times,

biên dịch: Quỳnh Anh,

Harry Truman: The Everyman President

 

Harry Truman: Vị tổng thống bình dân

 

 


 

In a happier and perhaps more democratic era, the belief prevailed that every American came equipped with such reserves of decency and good sense that each of us could make a pretty darned good president if we had to.

 

Trong một kỷ nguyên hạnh phúc hơn và có lẽ dân chủ hơn, niềm tin phổ biến rằng mọi người Mỹ đều đủ đứng đắn và ý thức tốt đến mức mỗi người đều có thể trở thành một vị tổng thống tốt nếu buộc phải làm tổng thống.

 

 

 

Remember “Dave,” the 1993 movie in which Kevin Kline, who runs a temp agency, agrees to pretend to be the president and then saves the nation from an evil usurper before revealing the truth and stepping aside to run for City Council?

 

Có ai còn nhớ bộ phim năm 1993 có tựa đề “Dave”, trong phim đó Kevin Kline thủ vai một người điều hành trung tâm việc làm thời vụ, đồng ý đóng giả làm tổng thống và rồi cứu quốc gia khỏi kẻ xấu muốn tiếm quyền, sau đó tiết lộ sự thật và rút lui để tranh cử Hội đồng Thành phố?

 

 

 

The movie’s tagline:

 

Lời tựa của bộ phim:

 

 

 

“In a country where anybody can become president, anybody just did.”

 

"Ở một đất nước mà ai cũng có thể trở thành tổng thống, một người bất kỳ vừa lên làm tổng thống."

 

 

 

Though on eight occasions a president’s death has abruptly elevated his vice president, the myth of “the accidental president” enshrouds Harry Truman as it does none of the others.

 

Dù có 8 lần tổng thống qua đời khiến phó tổng thống của ông ta bất ngờ lên chức, nhưng huyền thoại về “vị tổng thống tình cờ” vẫn bao phủ Harry Truman khác hẳn với những người kia.

 

 

 

(That, in fact, is the title of one biography.)

 

(Trên thực tế, đó còn là tiêu đề của một cuốn tiểu sử.)

 

 

 

Franklin Roosevelt kept Truman in the dark about virtually everything before dying only three months into his fourth term.

 

Franklin Roosevelt hầu như giấu kín Truman mọi vấn đề trước khi ông ta qua đời khi mới bắt đầu nhiệm kỳ thứ tư được ba tháng.

 

 

 

The new president then faced crises that would have left Dave whimpering — bringing World War II to an end, designing a postwar order and confronting Soviet aggression without triggering World War III.

 

Tân tổng thống khi đó phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng có lẽ sẽ khiến nhân vật Dave phải khóc thét — kết thúc Thế chiến II, thiết lập trật tự thời hậu chiến và đối đầu với sự công kích của Liên Xô mà không kích động Thế chiến III.

 

 

 

A very crafty fellow, Truman encouraged the idea that he brought nothing more to the job than old-fashioned American horse sense.

 

Là một người nhiều mánh khóe, Truman truyền bá ý niệm rằng ông ta không có gì hơn ngoài lương tâm chất phác đúng chất Mỹ cổ điển.

 

 

 

“I’m a homegrown American farm product,” Jeffrey Frank quotes him telling an audience in his beguiling new biography, “The Trials of Harry S. Truman.”

 

“Tôi là sản vật cây nhà lá vườn của nước Mỹ,” tác giả Jeffrey Frank trích lời ông phát biểu trong cuốn tiểu sử mới rất cuốn hút, “The Trials of Harry S. Truman.” (“Những nỗi gian truân của Harry S. Truman.”)

 

 

 

“And I’m proud of the breed I represent — the completely unterrified form of America democracy.”

 

“Và tôi tự hào về giống nòi tôi đại diện hình thức dân chủ trọn vẹn can đảm của nước Mỹ.”

 

 

 

This Frank Capra routine was just true enough to work.

 

Thói quen kiểu Frank Capra này vừa đủ chân thực để phát huy tác dụng.

 

 

 

Truman never attended college, helped run the family farm and after World War I started an unsuccessful haberdashery.

 

Truman chưa bao giờ học đại học, ông giúp điều hành trang trại của gia đình, và sau Thế chiến I ông bắt đầu một cơ sở may mặc không thành công.

 

 

 

He climbed up Missouri politics thanks to the Kansas City boss Tom Pendergast, barely left a mark during his decade in the United States Senate and proved a perfectly unobjectionable candidate when Roosevelt needed a running mate after he decided to dump Vice President Henry Wallace.

 

Ông leo lên chính trường Missouri nhờ ông chủ Tom Pendergast của Thành phố Kansas, ông hầu như không để lại dấu ấn trong suốt thập kỷ làm việc tại Thượng viện Mỹ và chứng tỏ bản thân là một ứng cử viên hoàn toàn không có chỗ nào chê trách được khi Roosevelt cần người cùng tranh cử sau khi ông ta quyết định bãi nhiệm Phó Tổng thống Henry Wallace.

 

 

 

Yet as Frank points out, Truman had the native self-confidence that marks out a man as a leader.

 

Tuy nhiên, tác giả Frank chỉ ra rằng Truman có tính tự tin bẩm sinh khiến ông mang tố chất của nhà lãnh đạo khác người thường.

 

 

 

And he was far more bookish than many of the nation’s better-educated presidents, a student of history who applied, and misapplied, his understanding of the past to the issues of his own time.

 

Và ông còn ham đọc sách hơn rất nhiều vị tổng thống có học thức cao hơn trong nước, một người chăm học hỏi lịch sử để rồi áp dụng, cũng như áp dụng sai, những hiểu biết của ông về quá khứ vào các vấn đề trong thời đại của chính ông.

 

 

 

A pretty shrewd judge himself, Frank does not so much puncture the Truman myth as let out just enough air to settle the man back to earth.

 

Bản thân là một người có khả năng đánh giá khá sắc sảo, tác giả Frank không chọc vỡ quá nhiều huyền thoại về Truman mà chỉ vừa đủ để khiến ông gần gũi và thực tế hơn.

 

 

 

Though Truman spent dozens of hours in Joseph Stalin’s company at Potsdam, he misread Stalin almost as egregiously as George W. Bush, another paragon of common sense in his own mind, did Vladimir Putin.

 

Mặc dù Truman đồng hành cùng Joseph Stalin tại Potsdam hàng chục giờ đồng hồ, ông đã hiểu sai Stalin gần giống như George W. Bush, cũng tự cho mình hoàn toàn hiểu được lý lẽ thông thường, đã hiểu sai Vladimir Putin.

 

 

 

Truman generally described Stalin as a wily and bighearted incarnation of Mother Russia undermined by the Politburo.

 

Truman thường miêu tả Stalin là hiện thân mưu mô hào hiệp của Nước mẹ Nga bị Bộ Chính trị làm suy yếu.

 

 

 

He was not, Frank dryly notes, “particularly curious about Stalin’s homicidal past.”

 

Tác giả Frank khẳng định ngắn gọn, ông ấy khôngthật sự tò mò về quá khứ sát nhân của Stalin.”

 

 

 

Yet Truman’s tenure coincides with the golden age of American statecraft, when the country embedded its unrivaled power in institutions like the United Nations, NATO and the International Monetary Fund, giving real meaning to the Wilsonian dream of a world governed by law rather than power.

 

Thế nhưng, nhiệm kỳ của Truman trùng với thời kỳ hoàng kim của nền pháp chế Mỹ, khi quốc gia này gắn sức mạnh vô song của mình vào các tổ chức như Liên Hợp Quốc, NATO và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, mang lại ý nghĩa thực sự cho giấc mơ của Wilson về một thế giới được điều hành bởi luật pháp chứ không phải quyền lực.

 

 

 

Truman signed off on the Marshall Plan, an initiative that is still cited as proof that the United States is an “exceptional” rather than merely self-seeking global power.

 

Truman đã phê duyệt Kế hoạch Marshall, một sáng kiến vẫn được coi là bằng chứng cho thấy Mỹ thực sự là một quyền lực toàn cầu "vượt trội" chứ không chỉ đơn thuần là lời tự nhận khoa trương.

 

 

 

How to explain the paradox that a figure with virtually no prior international experience presided over the creation of a world order that survives — if just barely — to this day?

 

Làm sao lý giải được nghịch lý rằng một nhân vật hầu như chưa từng có kinh nghiệm quốc tế đã chủ trì việc tạo ra một trật tự thế giới — dù ít hay nhiều  — vẫn tồn tại cho đến ngày nay?

 

 

 

Frank’s answer:

 

Câu trả lời của tác giả Frank:

 

 

 

Truman appointed the right people, though often after hiring the wrong people.

 

Truman bổ nhiệm đúng người, mặc dù thường sau khi dùng nhầm người.

 

 

 

He fired the showboat James F. Byrnes to make George C. Marshall, a revered five-star general, his secretary of state; and then fired the tempestuous Louis Johnson to make room for Marshall at Defense.

 

Ông sa thải James F. Byrnes có tính cách khoa trương ra vẻ để đưa George C. Marshall, một vị tướng năm sao được kính trọng, lên làm ngoại trưởng; và sau đó sa thải Louis Johnson nóng tính để nhường chỗ cho Marshall tại Bộ Quốc phòng.

 

 

 

He appointed the deeply knowledgeable and highly dependable Dean Acheson secretary of state after Marshall.

 

Ông bổ nhiệm Dean Acheson có kiến thức sâu sắc và rất đáng tin cậy làm Ngoại trưởng thay cho Marshall.

 

 

 

Frank emphasizes Truman’s deference to both these men; the president appears not to have read in advance, or even known about, the Harvard commencement speech in which Marshall announced the momentous aid program that rightly bears his name.

 

Tác giả Frank nhấn mạnh Truman có thái độ chiều theo ý cả hai người này; Tổng thống dường như không đọc trước, hoặc thậm chí không biết về bài phát biểu khai giảng Harvard, trong đó Marshall công bố chương trình viện trợ quan trọng xứng đáng mang tên ông ta.

 

 

 

Frank, a former editor at The New Yorker (where, almost 30 years ago, he sometimes served as my editor), composes charming and often penetrating sketches of the men around Truman, including the vainglorious Bernard Baruch, the glamorous and deeply troubled defense secretary James Forrestal and Acheson himself, an Anglophile with a lovingly waxed mustache who served for Redbaiters as almost the cartoon version of the “parlor pink.”

 

Tác giả Frank, cựu biên tập viên tờ The New Yorker (ở đây, gần 30 năm trước, anh ấy đôi khi làm biên tập viên cho tôi), đã tạo ra những nét phác thảo hấp dẫn và sâu sắc về những người xung quanh Truman, bao gồm cả Bernard Baruch hay tự đắc, hoặc vị thư ký quốc phòng hào nhoáng và vô cùng rắc rối James Forrestal,cả Acheson, một người thân Anh với bộ ria mép được vuốt keo trau chuốt từng là kẻ truy lùng Cộng sản và gần như phiên bản hoạt hình của một người cảm tình với cảnh tả.

 

 

 

What, then, did Truman do?

 

Vậy thì, Truman khi đó làm gì?

 

 

 

First, he made tough calls when he had to, dropping the atomic bomb, ordering American troops into Korea, canning the demigod Gen. Douglas MacArthur.

 

Trước hết, ông đưa ra những quyết định khó khăn khi ông buộc phải làm như vậy, thả bom nguyên tử, đưa quân đội Mỹ vào Hàn Quốc, và sa thải vị tướng huyền thoại Douglas MacArthur.

 

 

 

Though his Cold War rhetoric was bellicose, his judgments were generally prudent:

 

Mặc dù lời hùng biện của ông về Chiến tranh Lạnh có phần hiếu chiến, nhưng các đánh giá của ông nhìn chung lại khá thận trọng:

 

 

 

When the Soviets imposed a blockade on Berlin in 1948, he refused to shoot his way in, as some of his generals advised; instead, he staged an airlift that prevented American and Soviet troops from confronting each other.

 

Khi Liên Xô thực hiện lệnh phong tỏa Berlin năm 1948, ông từ chối tiến vào, như một số tướng lĩnh của ông cố vấn; thay vào đó, ông dàn dựng một cuộc không vận để ngăn quân đội Mỹ và Liên Xô đối đầu với nhau.

 

 

 

Second, Truman presented the face and voice of unterrified democracy to citizens very much inclined to be terrified as the cataclysm of World War II appeared to be giving way to the Götterdämmerung of World War III.

 

Thứ hai, Truman đại diện cho bộ mặt và tiếng nói của nền dân chủ can đảm đối với những người dân có khuynh hướng sợ hãi khi biến động lớn trong Thế chiến II dường như đang dẫn đường đến Ngày tận thế của Thế chiến III.

 

 

 

“Truman looks like my dentist,” said the socialite Susan Mary Jay, after hearing him announce the obliteration of Hiroshima.

 

Susan Mary Jay, người có vai vế trong xã hội, từng nói rằng "Truman trông giống như nha sĩ của tôi" sau khi nghe ông thông báo hủy diệt Hiroshima.

 

 

 

That was probably just as well.

 

Có lẽ vậy cũng tốt.

 

 

 

Biographers have a built-in bias toward giving their subject credit for anything within reach; Frank leans almost in the opposite direction.

 

Người viết tiểu sử thường mang thiên hướng ghi công cho chủ thể tác phẩm của họ bất kỳ điều gì họ có thể; tác giả Frank gần như nghiêng về hướng ngược lại.

 

 

 

He does not mention, for example, a story told by both David McCullough and the Truman scholar Alonzo Hamby, that for half a century Truman kept in his wallet the lines from Tennyson’s poem “Locksley Hall” that envision a world governed by a “Parliament of Man” and “lapt in universal law.”

 

Chẳng hạn, tác giả không đề cập đến một giai thoại được cả David McCullough và học giả Truman Alonzo Hamby kể lại, rằng trong nửa thế kỷ Truman giữ trong ví của ông những dòng thơ trong bài “Locksley Hall” của Tennyson hình dung về một thế giới được điều hành bởi một “Nghị viện của Con người” bao trùm trong luật pháp chung.”

 

 

 

I had always taken that anecdote to imply a deep strain of Wilsonian idealism in this poker-playing machine pol.

 

Tôi luôn lấy giai thoại đó để ám chỉ khuynh hướng rất sâu của chủ nghĩa lý tưởng Wilson trong bộ máy chính trị bài bạc này.

 

 

 

Was it there?

 

có tồn tại hay không?

 

 

 

More broadly, did Truman manage to keep his gyroscope stable thanks not only to common sense but to something more like actual political opinions?

 

Nói rộng hơn, liệu Truman thành công giữ được con quay của ông ta cân bằng có phải chỉ vì ông ta hiểu lẽ thường hay còn nhờ vào quan điểm chính trị thực sự?

 

 

 

Frank has very little to say about the Fair Deal, Truman’s domestic agenda.

 

Tác giả Frank bàn rất ít về Thỏa thuận Công bằng, chương trình nghị sự trong nước của Truman.

 

 

 

He describes the State of the Union Message that Truman delivered after his miraculous victory in the 1948 election as turgid and routine.

 

Tác giả miêu tả Thông điệp Liên bang mà Truman đưa ra sau chiến thắng kỳ diệu của ông trong cuộc bầu cử năm 1948 là huênh hoangnhàm chán.

 

 

 

Yet at the time The New Republic called it “the most left-leaning message ever sent by an American president to Congress.”

 

Tuy nhiên, thời điểm đó, tờ The New Republic gọi đó là “thông điệp thiên tả nhất từng được một tổng thống Mỹ gửi tới Quốc hội.

 

 

 

Liberals, who had scorned Truman as a hack, now looked to him as a savior.

 

Những người theo chủ nghĩa tự do, những người từng khinh bỉ coi Truman chỉ là chính trị gia phục vụ cho đảng phái chính trị, giờ lại coi ông như cứu tinh.

 

 

 

The almost complete failure of Fair Deal legislation, and above all of the civil rights package Truman had bravely introduced, would set back liberalism for a generation.

 

Sự thất bại gần như hoàn toàn của Thỏa thuận Công bằng, và hơn hết là chương trình dân quyền Truman dũng cảm đưa ra, đã kéo lùi chủ nghĩa tự do suốt cả một thế hệ.

 

 

 

How much of that, if any, was Truman’s fault?

 

Bao nhiêu phần trong đó, nếu có, là lỗi của Truman?

 

 

 

How much did he care?

 

Ông ấy quan tâm chừng nào?

 

 

 

Frank’s interests lie elsewhere; and he deserves credit for judiciousness on the tormenting decisions Truman was compelled to make.

 

Mối quan tâm của tác giả Frank đặt ở chỗ khác; và tác giả xứng đáng được ghi nhận vì sự sáng suốt trước những quyết định đau đớn mà Truman buộc phải đưa ra.

 

 

 

He ultimately accepts the logic both of Hiroshima and of Korea, though he argues that Truman could have preserved the independence of South Korea without approving MacArthur’s insane decision to cross the 38th parallel in order to take on Chinese as well as North Korean forces.

 

Rốt cuộc, tác giả chấp nhận lý lẽ về cả Hiroshima và Hàn Quốc, mặc dù tác giả lập luận rằng Truman có thể bảo về nền độc lập của Hàn Quốc mà không cần chấp thuận quyết định điên rồ của MacArthur là vượt vĩ tuyến 38 để đối đầu với các lực lượng của Trung Quốc cũng như Triều Tiên.

 

 

 

Beyond that, Frank gives us this ebullient, often cantankerous man in full.

 

Ngoài ra, tác giả Frank còn cho chúng ta thấy đầy đủ về con người sôi nổi và hay gây gổ này.

 

 

 

He quotes the magisterial Walter Lippmann as observing that while it was very easy to get mad at Truman, “neither he nor his critics and opponents were able to keep on being angry.

 

Tác giả trích lời của quan tòa Walter Lippmann quan sát thấy rằng dù rất dễ căm giận Truman, “cả ông ấy lẫn những người chỉ trích và đối thủ của ông đều không thể tiếp tục tức giận.

 

 

 

For when he lost his temper it was a good temper that he was losing.”

 

Vì khi ông ấy mất bình tĩnh thì đó không phải chuyện tốt."


THE TRIALS OF HARRY S. TRUMAN
The Extraordinary Presidency of an Ordinary Man, 1945-1953
By Jeffrey Frank
Illustrated. 528 pp. Simon & Schuster. $32.50.

Chia sẻ: